Skip to document

Tiểu luận triết học Ý thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội

triet hoc mac le nin tieu luan kinh te chinh tri
Course

Triết 1

999+ Documents
Students shared 4394 documents in this course
Academic year: 2021/2022
Uploaded by:

Comments

Please sign in or register to post comments.

Related Studylists

TriếtTriết họcTriết

Preview text

Tiểu luận triết

LỜI MỞ ĐẦU.

[ [ [

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng. Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chung ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý

Tiểu luận triết

nghĩaòn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần-xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con ngườià có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước. Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội. Trong bài tiểu luận này em chọn đề tài: " Ý thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội " do thời gian và trình độ còn hạn chế vì vậy bài viết này chắc chắn sẽ không tránh được những thiếu sót rất mong nhận được sự đóng góp chỉ dạy của các thầy cô.

Tiểu luận triết

Khi khoa học tự nhiên phát triển, con người đã chứng minh được sự phụ thuộc của các hiện tượng tinh thần, ý thức vào bộ óc con người thì một bộ phận nhà duy vật theo chủ nghĩa duy vật máy móc cho rằng óc trực tiếp tiết ra ý thức như gan tiết ra mật. Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII quan niệm ý thức bao gồm cả tâm lý, tình cảm tri thức trí tuệ, tự ý thức và định nghĩa ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan. Định nghĩa này chưa chỉ rõ được vai trò của xã hội, của ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là đặc tính và sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Theo triết học Mac-Lênin "ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não của người thông qua lao động ngôn ngữ'' Nói vấn đề này Mác nhấn mạnh: tinh thần, ý thức chẳng qua nó chỉ là cái vật chất di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi trong đó. ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri tức là quan trọng nhất, là

phương thức tồn tại của ý thức. Tự ý thức là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy vật coi tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó có sẵn trong các cá nhân, biểu hiện hướng về bản thân mình, tự khẳng định "cái tôi" riêng biệt tách rời những quan hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng tự ý thức là ý thức hướng về bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt được mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức mình như là một thực thể hoạt động có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội, đặc biệt trong giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn đòi hỏi con người phải nhận thức rõ bản thân mình, tự điều chỉnh mình tuân theo các tiêu chuẩn, quy tắc mà xã hội đặt ra. Con người có thể đặt ra và trả lời các câu hỏi:

Tiểu luận triết

Mình là ai? Mình phải làm gì? Mình được làm gì? Làm như thế nào? Ngoài ra văn hóa cũng đóng vai trò là "gương soi" giúp con người tự ý thức được bản thân. Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể có từ trước nhưng gần như đã trở thành bản năng, kỹ năng nằm sâu trong ý thức của chủ thể.. Tình cảm là những xúc động của con người trước thế giới xung quanh đối với bản thân mình. Cảm gíac yêu ghét một cái gì đó, một người nào đó hay một sự vật, hiện tượng xung quanh. Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri thức là nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với qúa trình con người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ quan. Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người hoạt đọng thì tự nó không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực. Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong sự liên hệ tác đọng qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.

1.1- Nguồn gốc của ý thức.

1.1.2- Nguồn gốc tự nhiên Cùng với sự tiến hóa của thế giới, vật chất có tính phân hóa cũng phát triển từ thấp đến cao. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho

Tiểu luận triết

trình độ khác nhau tương ứng. Tính kích thích là hình thức phản ánh đặc trưng cho thế giới thực vật và các động vật bậc thấp chưa có hệ thần kinh. Tính cảm ứng hay là năng lực có cảm giác là hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh. Nét đặc trưng cho phản ánh này là ngay trong quá trình hệ thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên ngoài thông qua phản xạ bẩm sinh hay phản xạ riêng biệt. Do vậy, sinh vật phản ánh có tính lựa chọn đối với các tính chất riêng biệt của sự vật thành các cảm giác khác nhau rất đa dạng và phong phú. Phản ánh tâm lý là hình hức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh trung ương. Đây là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới động vật gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Phản ánh tâm lý đưa lại cho con vật thông tin về các thuộc tính, quan hệ của sự vật bên ngoài và về cả ý nghĩ của chúng đối với đời sống của con vật. Nhờ vậy mà nó có thể lường trước được tất cả những tình huống có thể xảy ra và chủ động điều chỉnh, lựa chọn đưa ra hành động thích hợp nhất. Phản ánh có ý thức là sự phản ánh cao nhất của sự phản ánh nó chỉ có khi xuất hiện con người và xã hội loài người. Sự phản ánh này không thể hiện ở cấp độ cảm tính như cảm gíac, tri giác, biểu tượng nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn thể hiện ở cấp độ lý tính: khái niệm, phán đoán, suy lý nhờ tín hiệu thứ hai (ngôn ngữ). Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh có mục đích, có kế hoạch, tự giác, chủ động tác động vào sự vật hiện tượng buộc sự vật bộc lộ ra những đặc điểm của chúng. Sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển xã hội.

1.1.2- Nguồn gốc xã hội. ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất so với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.

Tiểu luận triết

Lao động là hoạt động vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên,thỏa mãn nhu cầu phục vụ mục đích cho bản thân con người. Chính nhờ lao động mà con người và xã hội loài người mới hình thành, phát triển. Khoa học đã chứng minh rằng tổ tiên của loài người là vượn, người nguyên thủy sống thành bầy đàn, hình thức lao động ban đầu là hái lượm, săn bắt và ăn thức ăn sống. Họ chỉ sử dụng các dụng cụ có sẵn trong tự nhiên, vượn người đã sáng tạo ra các công cụ lao động mới cùng với sự phát triển bàn tay dần dần tiến hóa thành con người. Lúc này thức ăn có nhiều hơn và quan trọng là tìm ra lửa để sinh hoạt và nướng chín thức ăn đã làm cho bộ óc đặc biệt phát triển, bán ccầu não phát triển làm tăng khả năng nhận biết, phản ứng trước các tình huống khách quan. Mặt khác, lao động là hoạt động có tính toán, có phương pháp mục đích do đó mang tính chủ động. Thêm vào đó, lao động là sự tác động chủ động của con người vào thế giới khách quan để phản ánh thế giới đó, lao động buộc thế giới xung quanh phải bộc lộ các thuộc tính, đặc điểm của nó. từ đó làm cho con người hiểu biết thêm về thế giới xung quanh, thấy sự vật hiện tượng xung quanh nhiều đặc tính mới mà lâu nay chưa có. Từ đó sáng tạo ra các sự vật khác chưa từng có trong tự nhiên có thê mang thuộc tính, đặc điểm của sự vật

trước đó, điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một tự nhiên mới. Thêm vào đó lao động là qúa trình tác động lặp đi, lặp lại hàng nghìn, hàng triệu lần phương pháp giống nhau nhờ vậy mà làm tăng năng lực tư duy trừu tượng của con người. Tóm lại, lao động có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển ý thức. Con người thoát ra khỏi động vật là có lao động. Vì vậy mà người ta nói "Một kiến trúc sư tồi còn hơn một con ong giỏi", bởiì trứơc khi xây một ngôi nhà người kiến trúc sư đã phác thảo trong đầu anh ta hình ảnh ngôi nhà còn con ong chỉ là xây tổ theo bản năng. Qua lao động bộ óc con người hình thành và hoàn thiện. Ăng ghen nói" Sau lao đọng và

Tiểu luận triết

ý thức có bản tính sáng tạo do ý thức gắn liền với lao động. Bản thân lao đọng là hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người. ý thức không chụp lạc một cách nguyên si, thụ động sự vật mà đã có cải biến, quá trình thu thập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng phản ánh gían tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động tác đọng vào thế giới để

phản ánh thế giới đó. Bản tính sáng tạo quy định mặt chủ quan của ý thức. ý thức chỉ có thể xuất hiện ở bộ óc người, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có chọn lọc tồn tại dưới hình thức chủ quan, là hình ảnh chủ quan phân biệt về nguyên tắc hiện thực khách quànva sự vật, hiện tượng, vật chất, cảm tính. Phản ánh và sáng tạo có liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hiện thực cho thấy: không có phản ánh thì không có sáng tạo, vì phản ánh là điểm xuất phát, là cơ sở của sáng tạo. Ngược lại không có sáng tạo thì không phải là sự phản ánh của ý thức. Đó là mối liên hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhận và xử lý thông tin, là sự thống nhất giữa các mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. Vì vậy, Mac đã gọi ý thức, ý niệm là hiện thực khách quan ( hay là cái vật chất) đã được di chuyển vào bộ não người và được cải biến đi trong đó. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Biểu hiện của sự phản ánh và sáng tạo, giữa chủ quan và khách quan của ý thức là quá trình thực hiện hóa tư tưởng. Đó là quá trình tư tưởng tìm cách tạo cho nó tính hiện thực trực tiếp dưới hình thức tính hiện thực bên ngoài, tạo ra những sự vật hiện tượng mới, tự nhiên "mới" tự nhiên "thứ hai" của con người.

1.1.3- Bản tính xã hội. ý thức được hình thành trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Trong quá trình đó con người nhận ra rằng cần có nhu cầu liên kết với nhau để trao đổi kinh nghiệm và các nhu cầu khác. Do đó mà khái niệm hoạt đọng xã hội ra đời. ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm

Tiểu luận triết

của xã hội, ý thức trước hết là tri thức của con người về xã hội, về thế giới khách quan đang diễn ra xung quanh, về mối liên hệ giữa người với người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội được hình thành cùng ý thức cá nhân, ý thức xã hội không thể tách rời ý thức cá nhân, ý thức cá nhân vừa có cái chung của giai cấp của dân tộc và các mặt khác của xã hội vừa có những nét độc đáo riêng do những điều kiện, hoàn cảnh riêng của cá nhân đó quy định. Như vậy, con người suy nghĩ và hành động không chỉ bằng bàn tay khối óc của mình mà còn bị chi phối bởi khối óc bàn tay của người khác, của xã hội của nhân loại nói chung. Tự tách ra khỏi môi trường xã hội con người không thể có ý thức, tình cảm người thực sự. Mỗi cá nhân phải tự nhận rõ vai trò của mình đối với bản thân và xã hội. Ta phải học làm người qua môi trường xã hội lành mạnh. Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng đọng chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con người.

1.1 – Sự tác động trở lại vật chất của ý thức

Vật chát quyết định nội dung của ý thức bởi vì ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan bên ngoài vào trong bộ óc của con người. Nhưng nếu chỉ thấy vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức mà không thấy được tính năng động tích cực của ý thức đối với vật chất thì sẽ mắc phải khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hìnhủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng :”ý thức của con người không phải là sự phản ánh giản đơn ,mà là sự phản ánh tích cực của thế giới vật chất “ Cùng với sự phát triển của hoạt động biến đổi thế giới ý thức con người phát triển song song với quá trình đó và có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với vật chấtự tác động trở lại vật chất của ý thức có thể là thúc dẩy hoặc ở một điều kiện nào đó trong một phạm vi nào đó kìm hãm sự phát triển của các quá trình hiện thực.

Tiểu luận triết

Đối tượng nghiên cứu của khoa học bao hàm cả tự nhiên, xã hội và bản thân con người, các lĩnh vực vật chất, tinh thần và cả các hình thái ý thức xã hội. 1.2- Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực tiễn. Vai trò của khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của xã hội. Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của nó thể hiện ở chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời, những nghành sản xuất mới, công nghệ mới, nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri thức không thể thiếu được của người lao động, biến người lao đọng thành người điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa học, kỹ thuật viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ngày một đông. Bản thân khoa học cũng trở thành một lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn. Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, các khoa học xã hội như kinh tế học, luật học, xã hội học... cũng không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp con người có đầu óc tư duy sáng tạo, tầm nhìn sâu rộng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo vì phải nắm được cơ sở khoa học thực tế thì mới hoạch định được chính sách, đường lối phát triển của một tổ chức hay một quốc gia. Tóm lại, có khoa học là bạn đồng hành thì xã hội ngày càng văn minh tiến bộ.

Tiểu luận triết

CHƯƠNG 2

VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC ĐỐI VỚI THỰC TIỄN

NƯỚC TA HIÊN NAY

2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt

Nam.

Trong công cuộc đổi mới, tri thức khoa học được xem là nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Những cơ sở khoa học cùng những luận cứ khoa học đã giúp Đảng có một sự định hướng đúng đắn về đuường lối chính sách phát triển của đất nước; vạch ra kế hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông nghiệp, du lịch dịch vụ, Khoa học công nghệ..ói đến vai trò nền tảng và động lực của tri thức Khoa học trong công cuộc đổi mới là nối đến con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá dựa trên cơ sở Khoa học và công nghệ, coi khoa học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu. Quan điểm này cho tấy rõ sự quyết tâm và lựa chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm và đổi mới phương thức phát triển phù hợp với những đòi hởi phải tiến hành công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững trong những thập niên đầu của thế kỷ 21. Nhìn lại thế kỷ 20 đã qua chúng ta thấy có những đổi thay to lớn do khoa học-công nghệ mang lại. Trên thế giới sự xuất hiện các nhóm nước mới công nghiệp hoá( NIC ) sau chiến tranh thế giới tthứ 2 cũng không nằm ngoài ảnh hưởng lan toả của các thành tựu khoa học - công nghệ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ tiến bộ bằng các chính sách công nghiệp và nông nghiệp khôn ngoan, các nước NIC đã tận dụng được cơ hội tiếp thu nhanh chóng các công nghệ mới, thay đổi phương thức sản xuất cũ vốn dựa trên lao động thủ công và tài nguyên chủ yếu để chuyển sang aps dụng các kỹ thuật cơ khí hoá, tự động hoá theo hướng tạo ra các giá trị gia tăng cao thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng kinh tế. Nhờ đi theo con đường

Tiểu luận triết

Về công nghiệp qua trình sáng tạo và triển khai chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã dẫn tới sự ra đời của một khu vực kinh tế mới - Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài rất năng động đang góp phần tạo ra trên 10% GDP, 30% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các công ty, xí nghiệp nhờ đi thẳng vào công nghệ hiện đại mà đã đạt đước những thắng lợi ngoài cả sự mong đợi. Ví dụ điển hình là công ty chế biến sữa Vinamilk từ tình trạng vô cùng khó khăn đã vươn lên sản xuất ra được những sản phẩm cạnh tranh được với hàng nhập ngoại. Trong các ngành, Bưu chính viễn thông, khia thác dầu khí và các ngành nghề khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu tư vào Kỹ thuật công nghệ hiện đại mà đạt được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn đinh. Văn hoá-giáo dục được nâng cấp, đầu tư cơ sở một cách thoả

đáng. Thự tế cho thấy sau 15 năm đổi mới dựa vào tiềm năng của đất nước và sự trợ giúp của Khoa học-Công nghệ chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Về kinh tế tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay đã sản xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định huqướng XHCN. Đời sống của nhân dân dần được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi khủng hoanmgr kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường. kinh tế tăng trưởng tương đối cao: Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7% trong một năm; giá trị nông -lâm-ngư ngiệp tăng bình quân 5,7%/ năm. trong đó: Nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4% và ngư nghiệp tăng 8,9%. Công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng năm 13,5%. Dầu tư sản xuất ra sản phẩm có triều sâu, đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. dịch vụ

Tiểu luận triết

phát triển vứi giá trị trung bình là 6,8%/ năm. Lạm phát giảm đáng kể: Năm 1986 là 587,2% thì năm 1990 chỉ còn 52,8%. Về chính trị xã hội nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn 1996-2000 đã có đóng góp tích cực trong phát triển lí luận và tổng kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Nhờ kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho quá trình chuẩn bị các văn kiện hội nghị trung ương khoá VIII, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội những năm sau và đonmgs góp cho việc chenr bị văn kiện Đại hội IX vừa qua. Khoa học xã hội còn đóng góp quan trọng và việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản dưới luật, các chính sách và hiệp định quốc tế, trong đó có hiệp định thương mại Việt-Mỹ, khoa học xã hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức xúc trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội như: Vấn đề toàn cầu hoá, quốc tế hoá, công nghiệp hoá-hiện đại hoá... Các vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy văn hoá phát triển lành mạnh với phương châm " Hoà nhập nhưng không hoà tan ". Bên cạnh việc tiếp thu văn hoá thế giới chúng ta không quên giữ gìn và phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Giáo dục ngày càng được chú trọng. Các quốc gia phát triển đã rút ra một điểm quan trọng là: Giáo dục là con đường ngắn nhất để phát triển để tiến tới nền kinh tế trí thức hay còn gọi là nền kinh tế chất xám. ở Việt Nam từ năm 1997 đến nay, nhân lực Khoa học-Công nghệ cả nước đã tăng 1,5 lần. Cán bộ Khoa học-Công nghệ có trình độ đại học đạt xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ xung thêm khoảng 180 nghìn người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ đã tăng lên gần 13 nghìn vào năm 2000. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, công trình điện, bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực. Bắt đầu từ năm 2000 chính phủ đã bố trí khoản ngân sách riêng để

Tiểu luận triết

  • Cơ chế quản lí kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động Khoa học-Công nghệ với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động Khoa học-Công nghệ phát triển.
  • Cơ chế quản lí Khoa học-Công nghệ chậm và chưa được đổi mới một cách căn bản mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lí đã xuất hiện từ rất sớm. Chưa có sự liên thông giữa cơ chế quản lí kinh tế và cơ chế quản lí Khoa học - Công nghệ. Chưa đảm bảo được quyền lợi vật chất và tôn vinh xứng đáng đối với các nhà khoa học có cống hiến lớn. Cơ chế hình thành, quản lí, đánh giá các đề tài Khoa học-Công nghệ vẫn còn nhiều khó khăn để có thể chuyển đổi theo tinh thần đổi mới của luật Khoa học-Công nghệ.
  • Thị trường Khoa học-Công nghệ còn manh nha chưa phát triển. Mặc dù giá trị các hợp đồng kí kết giữa các cơ quan Khoa học-Công nghệ với các tổ chức kinh tế xã hội, giữa trong nước và nước ngoài đang tăng lên

nhưng vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng.

2. Những giải pháp cần thiết và cấp bách cho nền kinh tế Viêt Nam hiên nay. Việt Nam là nước đi sau có nhiều khả năng tiếp nhận những thành tựu Khoa học-Công nghệ của thế giới. Do đó có thể rút ngắn được quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước ở các nước công nghiệp phát triển, kinh tế tri thức đang có những bước phát triển mạnh. Việt Nam không chỉ phải tích cực chuẩn bị cho bước phát triển này, mà cần phải tiếp nhận kinh tế tri thức ở những ngành, lĩnh vực mà ta có khả năng, ưu thế. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa đặt ra những thách thức song cũng cho ta nhiều cơ hội để nâng cao trình độ Khoa học - Công nghệ và xây dựng tiềm lực khoa học. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã vạch ra chiến lược: Phát triển đồng bộ các ngành khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để Khoa học-Công nghệ thực sự là động lực phát triển, vừa đảm bảo thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá vừa tạo

Tiểu luận triết

ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đồng thời xây dựng tiềm lực Khoa học- Công nghệ, xây dựng cơ sở để từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. cụ thể là một số giải pháp sau. - Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nghị quyết đại hội IX của Đảng, nâng cao nhận thức toàn dân và các cấp, các ngành về vai trò nền tảng và động lực của Khoa học-Công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. - Hai là, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lí kinh tế nhằm tạo lập môi trường kinh tế-xã hội theo hướng tạo điều kiện, vừa khuyến khích, vừa ràng buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao tính cạnh tranh thị

trường trong nước và nước ngoài. - Ba là, đưa luật Khoa học-Công nghệ vào cuộc sống rộng rãi hơn. Tiến hành tổng kết thực tiễn hoạt động Khoa học-Công nghệ những năm qua và kịp thời thể chế hoá những mô hình tốt, cách làm hay đã được thực tiễn thử thách và chứng minh. Đồng thời tích cực đổi mới về cơ bản cơ chế quản lí Khoa học-Công nghệ ttheo tinh thần luật Khoa học-Công nghệ để nhanh chongs nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực Khoa học-Công nghệ.

  • Bốn là, tháo gỡ các khó khăn, các ách tắc để mở rộng và phát triển khai thông thị trường Khoa học-Công nghệ. đây là nhiệm vụ hết sức cấp bách, cơ bản và lâu dài, để phát huy hết vai trò động lực của Khoa học- Công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
  • Năm là, chú trọng và ưu tiên cho nghiên cứu và thực thi các chính sách sử dụng và đãi ngộ nhân tài tri thức khoa học bên cạnh các biện pháp chăm lo đào tạo nhân lực Khoa học-Công nghệ.
  • Sáu là, Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng Khoa học-Công nghệ để nhanh chóng hội nhập với thế giới và khu vực, đặc biệt là cơ sở hạ tầng
Was this document helpful?

Tiểu luận triết học Ý thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội

Course: Triết 1

999+ Documents
Students shared 4394 documents in this course
Was this document helpful?
H tr ôn tp
[ĐỀ CƯƠNG CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI HC]
Tiu lun triết
LI M ĐẦU.
[ [ [
Ý thc mt trong hai phm trù thuc vn đề cơ bn ca triết hc.
là hình thc cao ca s phn ánh ca thc ti khách quan, hình thc mà
riêng con người mi có. ý thc ca con người cơ năng ca cái khối vt
cht đặc bit phc tm mà người ta gi b óc con người(theo LêNin).
Tác động ca ý thc hi đối vi con người cùng to ln. không
nhng là kim ch nam cho hot động thc tin mà con là động lc thc tin.
S thành công hay tht bi ca thc tin, tác động tích c hay tiêu cc ca
ý thc đối vi s phát trin ca t nhiên, hi ch yếu ph thuc vào vai
trò chỉ đạo ca ý thc mà biu hin ra là vai trò ca khoa hc văn hoá và tư
tưỏng.
Nn kinh tế ca nước ta t mt đim xut phát thp, tim lc kinh tế-
k thut yếu, trong điu kin s biến đổi khoa hc- công ngh trên thế gii
li din ra rt nhanh, liu nước ta thđạt đựoc nhng thành công mong
mun trong vic to ra nn khoa hc- công nghđt tiêu chun quc tế
trong mt thi gian ngn hay không? Chung ta phi làm để tránh được
nguy cơ tt hu so vi các nước trong khu vc trên thế gii? Câu hi
này đặt ra cho chúng ta mt vn đề đó s la chn bước đi trt tưu
tiên phát trin khoa hc- công ngh trong quan h vi phát trin kinh tế
trong các giai đon ti. Như vy nghĩa là ta cn phi tri thc tri
thc là khoa hc. Chúng ta phi không ngng nâng cao kh năng nhn thc
cho mi người. Tuy nhiên nếu tri thc không biến thành nim tin ý chí
thì t cũng không vai trò đối vi đời sng hin thc c.Ch chú
trng đến tri thc b qua công tác văn hoá- tư tưởng thì s không phát
huy được thế mnh truyn thng ca dân tc. Chc năng ca các giá tr văn
hoá đã đem li ch nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì
tt c các dng giá tr ( giá tr vt cht và tinh thn) s mt đi mi ý