Skip to document

Hi Lạp cổ đại La Mã cổ đại

lịch sử văn minh thế giới, hi lạp cổ đại la mã cổ đại
Course

lịch sử đảng (1235,.j)

253 Documents
Students shared 253 documents in this course
Academic year: 2020/2021
Uploaded by:

Comments

Please sign in or register to post comments.

Preview text

A. NHỮNG Ý KIẾN VỀ LỊCH SỬ VĂN MINH CỦA HI LẠP CỔ ĐẠI

I. Thời kỳ Cret-Myxen : Thời kỳ đầu nền văn minh Hi Lạp với các nhà nước tương đối hùng mạnh và nền kinh tế có nhiều điểm khác biệt với nền văn hoá phương Đông.

-Thời kỳ Cret tồn tại từ đầu thiên niên kỷ 3 đến đầu thế kỷ thứ 12 TCN. Chủ nhân của nền văn hoá này là người Akeang. Và thời kỳ Myxen tồn tại từ thế kỷ 16 đến 12.

-Ở đây đã xuất hiện những nhà nước tương đối hùng mạnh với chế độ quân quyền. Đã có sự phân cấp trong xã hội rõ rệt, đặc biệt xã hội Myxen chúng ta có thể nhận ra những nhà quý phái, nhà điền chủ, và các quan lại, thư lại và nô lệ.

-Nền kinh tế của họ cũng tương đối phát triển với nền thủ công nghiệp nhiều ngành nghề với những xưởng sử dụng nô lệ; nền nông nghiệp chỉ sản xuất được ô liu, rượu mà một chút nông nghiệp nên dựa vào nhập khẩu vào bên ngoài nhiều; đặc biệt là nền thương mại hàng từ thời này đã phát triển mạnh vì điều kiện địa lý thuận lợi, thuyền bè có thể đi hàng trăm dặm mà không bao giờ xa bãi biển và đi lại bằng thuyền nhanh hơn đi bị phải đi lên xuống đồi. -Hơn nữa, nhiều nhà khảo cổ đã tìm thấy minh chứng cho sự giàu có của các vương quốc thời kỳ này. Từ thời Cret hầu như nhà dân nào cũng có một món trang sức và đối với họ, nghệ thuật đã không chỉ là một công cụ để ghi chép lại lịch sử mà trở thành một thứ để thưởng thức.

===>Ta có thể nói nền kinh tế của Hi lạp thời kỳ này đã là một nền kinh tế mở. Đây chính là điểm khác biệt chính với nền kinh tế của các quốc gia phương đông cổ đại khác với nền kinh tế cục bộ ít giao lưu với bên ngoài và mang tính tự cung tự cấp, nguồn cung giựa chủ yếu vào trồng chọt và chăn nuôi gia súc, ít có sự phân hoá lao động.

II. Thời kỳ Hôme : thời kỳ đen tối của nền văn minh Hi Lạp.

-Tồn tại từ XI-IX TCN, chủ nhân của thời kỳ này là người Dorian, một giống người khác nhưng cũng nói tiếng Hi Lạp.

-Hoàn cảnh xuất hiện của thời kỳ này: Vào thế kỷ XII TCN người Dorian từ phía Bắc tràn xuống trinh phục người Myxen.

-Người Dorian chưa đạt được đến trình độ văn hoá của người Myxen nên cuộc xâm lăng của họ làm văn minh Hi Lạp chậm đến ba thế kỷ. -Từ thời Cret đã xuất hiện hai thứ chữ viết mà các nhà khoa học vẫn chưa thể đọc được.

  • Tuy nhiên đến thời kỳ Hôme thì các bút tích của người Hi Lạp đều không được tìm thấy và nhiều người cho rằng đây là thời kỳ dân Hi Lạp trở nên mù chữ cho đến khi họ mượn được chữ cái của người vào thế kỷ VIII TCN. -Tuy nhiên trong thời kỳ này đã xuất hiện hai tập sử thi Iliade và Odysseus nổi tiếng và có ảnh hương lớn đến tận nền văn học hiện lại. Hai bộ sử thi này đã kể lại chi tiết cuộc chiến tranh giữa Hi Lạp và thành Tơroa xảy ra cuối thời Myxen. Hai bản anh hùng ca này đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ đen tối này.

==> Có thể nói, nền văn minh Hi Lạp dưới thời của người Dorian đã có sự tụt hậu nhiều so với thời kỳ trước. Nền văn minh Hi Lạp thời này không có những bước tiến đáng kể trừ sự xuất hiện của hai bộ sử thi Iliade và Odysseus.

II. Thời kỳ thành bang : thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hi Lạp cổ đại. Tồn tại 4 thế kỷ, từ VIII-IV TCN và là sự xuất hiện của nhiều nhà nước có bộ máy chính trị và đời sống người dân đa dạng

-Hoàn cảnh xuất hiện những thành bang: Do điều kiện địa lý đất tiền Hi Lạp có nhiều đồi núi nên xuất hiện nhiều vùng nhỏ riêng biệt với đồng bằng ở giữa là trung tâm trở thành một quốc gia, đây chính là các thành bang (polis). Các thành bang tồn tại độc lập nhưng có sự giao lưu với nhau thường xuyên. Số thành bang lớn nhất có được là đến vài trăm và số dân ở mỗi thành bang là không lớn so với các quốc gia ngày nay. --Mặc dù đều có chung nền văn hoá Hi Lạp cổ và đều nói chung một ngôn ngữ nhưng các thành bang lại có đời sống chính trị vô cùng khác nhau mà ta có thể thấy rõ ở hai nhà nước lớn là Athens và Sparte.

  1. Athens và Sparta, hai nhà nước có thể chế chính trị, nền kinh tế và đời sống xã hội vô cùng khác nhau

*Sparta: bảo thủ, luôn sợ bị mất quyền lực.

-Là một thị quốc thống trị hầu hết vùng Attique, Athens Trái ngược với Sparta, lấy sự tự do rộng rãi làm căn cứ cho hệ thống chính trị của mình. Vào năm 600 TCN Athens được cai trị bởi một hội đồng gồm 9 quý tộc gọi là Aréopage. Khi ấy ở đây đã có sự phân chia giai cấp mạnh mẽ.

-Toàn bộ quyền lực chính trị đều rơi vào tay một phần nhỏ tầng lớp quý tộc còn phần lớn người dân thì rơi vào hoàn cảnh khó khăn, bị chịu những khoản nợ lớn và phải đi làm nô lệ.

-Sự mâu thuẫn giai cấp này đã dẫn đến sự đấu tranh không nhưng của quần chúng đòi lại quyền lợi của chính mình. -Qua sự trị vì của các nhà cầm quyền Drakon, Solon, Peisistratos, Cleisthenes,... thì đến thế kỷ V TCN nền dân chủ của Athens đạt đến cao trào quyền lực không thuộc về giới quý tộc nữa mà thuộc về người dân. Mỗi năm 10 lần có một đại hội được tổ chức để quyết định những đạo luật và để đày đi một nhà cầm quyền mất uy tín.

  • Quyền hành pháp năm trong tay “Hội đồng 500” gồm 50 người, vì không ai được tham gia Hội đồng qúa 2 năm nên công dân nào cũng được tham gia ít nhất một lần trong đời. Athens cũng có những nhà cầm quyền nhưng được người dân bầu ra và họ chị được làm mỗi lần một năm nhưng có quyền tái ứng cử hằng năm. -Về pháp luật, Athens cũng vô cùng dân chủ, tất cả mọi quận đều bầu ra 6000 người vừa làm thẩm phán vừa làm bồi phẩm. Người dân ở đây tin rằng càng nhiều càng công bằng nên chỉ những vụ án nhỏ cũng cần đến 201 thẩm phán và những vụ án lớn thì cần đến 1501. -Có thể nói nền dân chủ ở Athens chính là nền dân chủ trực tiếp và những nhà cai trị ở đây không phải những nhà hành chính chuyên nghiệp.

-Về kinh tế: Nền nông nghiệp ở Athens chủ yếu không trồng cây lúa mì mà trồng ô liu và nho để làm dầu và rượi. Nền kinh tế của Athens là nền kinh tế mở, dựa nhiều vào giao thương và ở đây đã có đồng tiền in dấu riêng. Đến thế kỷ thứ 5 TCN Athens đã trở thành một quốc gia giàu có, là nơi xuất khẩu đồ gốm, rượi vang và dầu lớn nhất Hi Lạp.

==> Có thể thấy rõ nhà nước ở Athens có sự giao thương rất lớn với các thành bang khác, đề cao sự tự do và tiếng nói của ngừoi dân. Đây chính là nền móng của nền dân chủ bây giờ.

2. Cuộc chiến tranh peloponnese : Sự kiệt quệ của những thành bang Hi Lạp tạo điều kiện cho sự xâm lược của Mcedonia.

-Hoàn cảnh: Sau cuộc chiến tranh đánh thắng Ba Tư Athén bước vào thời kỳ cường thịnh. Năm 478 TCN, Athens lôi kéo được gần 200 thành bang tạo được một đồng minh gọi là Đồng minh Delos. Do đường lối chính trị và kinh tế khác nhau nên vào năm hai liên minh Delos và Péloponnèse (liên minh gồm Sparta và các đồng minh) đã sảy ra cuộc chiến tranh gọi là cuộc chiến Peloponnese.

-Kết quả: Athens thất bại Sparta và phải ký kết hiệp định đầu hàng nhưng sau cuộc chiến Sparta trở thành bá chủ Hi Lạp nhưng lại không gìn giữ được hoà bình bao lâu. Nhiều cuộc chiến nhỏ liên miên đã diễn ra làm nền kinh tế trở nên kiệt quệ, dân chúng bất mãn. ==> Tình hình lúc đó rất thuận lợi cho kẻ ngoại xâm Macédoine ở phương Bắc.

III. Thời kỳ phát triển của Macédoine và quá trình thống nhất các thành bang.

-Macédoine là một thành bang nhỏ với nền kinh tế không phát triển. Mãi đến nền trị vì của vua Philipine mới có hàng loạt những chính sách đổi mới làm cho nơi đây có sự phát triển vượt bậc. Ông có tâm địa muốn thống nhất toàn bộ Hi Lạp nhưng chưa đạt được điều này đã bị ám sát năm 336. -Con trai ông là Alexandre sau đấy lên nắm quyền khi mới 20 tuổi và tiếp tục nguyện vọng của cha.

-Trong thời gian trị vì của mình Alexandre đã chiếm được Syria, Palestine, Ai Cập, thành Babylone và tiến quân mãi đến tận biên giới Ấn độ. Tuy sống không đủ lâu để có thể cai trị một vùng đất rộng lớn như vậy nhưng ông đã có hòài bãi muốn cai trị mỗi nước theo truyền thống của nước ấy và lấy văn hoá Hi Lạp làm liên hệ chung cho cả đế quốc. Alexandre đã mơ đến một thế giới thống nhất nhưng những người kế vị ông đã không nghĩ như vậy. -Sau năm 323 TCN khi Alexandre mất, các cuộc chiến dành quyền lực xảy ra liên tục. Đến thế kỷ thú III TCN thì Macédoine bị chia ra làm ba nước lớn: Macédoine và Hi Lạp, Xini và Ai Cập.

  • Nhưng những đất nước này đến giữa thế kỷ II TCN dần dần bị tiêu diệt hoặc bị nhập vào đế quốc La Mã, chấm dứt thời kỳ nền văn minh Hi Lạp cổ đại.

mở rộng uy lực của tầng lớp quý tộc Roma đã đặt Roma trước một đòi hỏi khẩn thiết : bành trướng và mở rộng lãnh thổ

*Quá trình bành chướng của Roma đã diễn ra trong suốt gần 200 năm và trải qua 2 thời kì: Thời kì Roma thống nhất bán đảo Italia và thời kì vươn ra khống chế, làm chủ cả khu vực Địa Trung Hải

1ời kì Roma thống nhất bán đảo Italia

  • Khi mới thành lập Roma mới chỉ là một thành bang nhỏ ở miền Trung bán đảo Ý. Từ thế kỉ IV TCN, La Mã không ngừng xâm lược ra bên ngoài, trong hơn một thế kỉ sau,La Mã đã chinh phục được toàn bộ bán đảo Ý
  • Vùng đất đầu tiên mà người Roma để mắt tới là những vùng đất đai của người Êtoruxco giữa hai song Acsno và Tibro. Họ đã suy yếu nhưng vẫn kháng cự quyết liệt để bảo toàn lãnh thổ. Trận kịch chiến cuối cùng giữa người Êtoruxco và quân Roma diễn ra ở thành Vêi
  • Trong trận kịch chiến đẫm máu cuối cùng diễn ra ở Benevento năm 275 TCN, liên quân Tarentum lọt vào tay người Roma và các thành bang khác của người Hi Lạp ở nam Italia cũng lần lượt quy thuận. Roma đã làm chủ phần đất rộng lớn cuối cùng của bán đảo Italia.
  • Năm 275 TCN được đánh dấu là năm hoàn thành chinh phục toàn bộ Italia của Roma.

2. Thời kì vươn ra khống chế , làm chủ cả khu vực Địa Trung Hải nơi hộ chinh phục người Hi Lạp, Ai Cập và Carthaginians. Quân đội La Mã có sức mạnh chưa từng có và tầm quan trọng đặc biệt trong nền văn minh

  • Xâm chiến và làm chủ toàn bộ Italia, Roma chiếm thêm được nhiều đất đai, thỏa mãn quyền bình đẳng về ruộng đất của các công dân, chiếm thêm được nhiều hải cảng quan trọng ở miền Nam. Nhờ học hỏi được kĩ thuật đóng thuyền của người Hi Lạp, lần đầu tiên Roma đã xây dựng được lực lượng hải quân của mình với 120 chiến thuyền trọng tải lớn. Sức đang mạnh, thế đang lên, Roma đã không dừng lại tham vọng mở rộng khu cương vực.
  • Sự tập trung và niềm tự hào của Roma trong quân đội rất quan trọng với sự phát triển của nền văn minh và đặc tính này đã hiển nhiên ngay từ thời kì vương chính khi Roma còn là một ngôi làng nhỏ.Các cuộc chinh phạt sau này giúp ích cho La Mã chinh phục những vùng đất xa xôi như Anh và Iraq
  • Tuy nhiên người Roma đã vấp phải trở ngại: Phía Tây ĐTH là thế lực của Cacstago, phía Đông là những thế lực hùng mạnh của người Makedonia, Xiri. Những cuộc chiến tranh lớn kéo dài nhiều năm giữa

các thế lực đã và đang muốn làm bá chủ khu vực Địa Trung Hải đã bùng nổ. -Trong đó phải kể đến chiến tranh giữa Roma – Cactago mà lịch sử quen gọi là chiến tranh Punic đã kéo dài 120 năm (264-146TCN) và là cuộc chiến gian khổ tốn kém nhất của Roma. 3. Sự phát triển kinh tế và chế độ chiếm nô của Roma thời cộng hòa

  • Những cuộc chinh chiến và thắng lợi liên tiếp của Roma trong các cuộc chiến đã đem lại cho Roma những nguồn lợi khổng lồ, không kể quyền bá chủ trên vùng biển ĐTH, quyền đặc biệt ưu đãi của các thuyền buôn Roma trong các hải cảng. Chiến lợi phẩm mà Roma thu được hết sức lớn lao, vàng bạc châu báu đếm không xuể, những bất động sản
  • Tất cả tạo nên biến động sâu sắc trong đời sống kinh tế và xã hội Roma, tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và chế độ chiếm nô của Roma trong thời kì này
  • Nét nổi bật của kinh tế nông nghiệp là việc tập trung cao độ ruộng đất vào tay giai cấp chủ nô. +Mặc dù nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế của người Roma nhưng kinh tế thủ công nghiệp và và hoạt động buôn bán cả nội và ngoại thương cũng rất phát triển có tác dụng lớn thúc đẩy KTNN nói chung và KT Roma nói chung.Đặc biệt là hoạt động ngoại thương diễn ra trên địa bàn khá rộng phải kể đến Đêliốt- trung tâm buôn bán quan trọng nhất, có mặt các thương nhân của hầu hết các miền ven ĐTH.
  • Việc buôn bán nô lệ cũng trở thành nghề phát đạt, thu nhiều lợi nhuận. Nguồn cung nô lệ quan trọng nhất là tù binh, nguồn thứ hai là nô lệ vì nợ mặc dù theo đạp luật Peteliuxo năm 326 TCN, Roma đã bãi bỏ chế độ nô lệ này nhưng đạo luật này chỉ áp dụng cho cư dân Italia còn ở các tỉnh của Roma tình trạng người nghèo bị cưỡng đoạt ruộng đất, nợ phải gán mình và gia đình làm nô lệ cho chủ vẫn là hiện tượng phổ biến. Nguồn thứ ba là những người bị hải tặc hoạt động trắng trợn ở vùng biển ĐTH cướp tàu thuyền, cướp của, bán người làm nô lệ.Nguồn nô lệ thứ tư là nô lệ do nữ nô sinh ra mặc dù số lượng không nhiều song chủ nô không phải bỏ tiền ra mua, dễ sai khiến nên các biệt có một số vùng chủ nô đã tiến hành kinh doanh lập trại để chuyên nuôi nữ nô sinh đẻ.Ngoài 4 nguồn kể trên còn có đóng góp số lượng đáng kể trẻ mồ côi lang thang cơ nhỡ được gia chủ đem về nuôi biến thành nô lệ.
  • Vậy có thể nhận xét nguồn nô lệ ở Roma khá phức tạp : có nô lệ là người nước ngoài, có nô lệ người Roma, nguồn cung nô lệ cũng không ổn định và đồng đềuông ở đâu lao động của nô lệ lại được sử

KẾT LUẬN CHUNG 2 NỀN VĂN MINH

  • HI LẠP : Như vậy, qua quá trình lịch sử của nền văn minh Hi Lạp cổ đại ta thấy một nền văn minh với những nét văn hoá vô cùng phong phú với những thành bang có nền chính trị và đời sống xã hội vô cùng khác nhau mặc dù có chung một nền văn hoá Hi Lạp. Nhìn chung sự thịnh vượng và phát triển của các quốc gia nơi đây đều là nhờ có một nền thị trường mở, có sự buốn bán qua lại mạnh mẽ giữa các nước và bộ máy chính trị có nhiều đổi mới để phù hợp với đời sống xã hội của ngừoi dân. Hơn thế nữa, ta cũng thấy được nguyên nhân tàn lụi của nền văn minh này là do lòng tham muốn thôn tính Hi Lạp dẫn đến các cuộc chiến xảy ra liên miên.
  • LA MÃ : Roma hình thành từ một ngôi làng nhỏ ở trung tâm sông Tyber ( Italy). Trong thế kỉ tiếp theo, nó lớn mạnh thành 1 đế chế trải dài từ Bắc Đại Tây Dương. Trong suốt quá trình lịch sử này Roma đã cho chúng ta thấy một sức mạnh quân sự và văn hóa, chính trị giúp nước này trở thành siêu cường và giúp định hình thứ gọi là nền văn minh phương Tây.
Was this document helpful?

Hi Lạp cổ đại La Mã cổ đại

Course: lịch sử đảng (1235,.j)

253 Documents
Students shared 253 documents in this course
Was this document helpful?
A. NHỮNG Ý KIẾN VỀ LỊCH SỬ VĂN MINH CỦA HI LẠP CỔ ĐẠI
I. Thời kỳ Cret-Myxen: Thời kỳ đầu nền văn minh Hi Lạp với các nhà
nước tương đối hùng mạnh và nền kinh tế có nhiều điểm khác biệt với
nền văn hoá phương Đông.
-Thời kỳ Cret tồn tại từ đầu thiên niên kỷ 3 đến đầu thế kỷ thứ 12 TCN.
Chủ nhân của nền văn hoá này là người Akeang. Và thời kỳ Myxen tồn
tại từ thế kỷ 16 đến 12.
-Ở đây đã xuất hiện những nhà nước tương đối hùng mạnh với chế độ
quân quyền. Đã có sự phân cấp trong xã hội rõ rệt, đặc biệt xã hội
Myxen chúng ta có thể nhận ra những nhà quý phái, nhà điền chủ, và
các quan lại, thư lại và nô lệ.
-Nền kinh tế của họ cũng tương đối phát triển với nền thủ công nghiệp
nhiều ngành nghề với những xưởng sử dụng nô lệ; nền nông nghiệp chỉ
sản xuất được ô liu, rượu mà một chút nông nghiệp nên dựa vào nhập
khẩu vào bên ngoài nhiều; đặc biệt là nền thương mại hàng từ thời này
đã phát triển mạnh vì điều kiện địa lý thuận lợi, thuyền bè có thể đi
hàng trăm dặm mà không bao giờ xa bãi biển và đi lại bằng thuyền
nhanh hơn đi bị phải đi lên xuống đồi.
-Hơn nữa, nhiều nhà khảo cổ đã tìm thấy minh chứng cho sự giàu có
của các vương quốc thời kỳ này. Từ thời Cret hầu như nhà dân nào
cũng có một món trang sức và đối với họ, nghệ thuật đã không chỉ là
một công cụ để ghi chép lại lịch sử mà trở thành một thứ để thưởng
thức.
===>Ta có thể nói nền kinh tế của Hi lạp thời kỳ này đã là một nền
kinh tế mở. Đây chính là điểm khác biệt chính với nền kinh tế của các
quốc gia phương đông cổ đại khác với nền kinh tế cục bộ ít giao lưu với
bên ngoài và mang tính tự cung tự cấp, nguồn cung giựa chủ yếu vào
trồng chọt và chăn nuôi gia súc, ít có sự phân hoá lao động.
II. Thời kỳ Hôme: thời kỳ đen tối của nền văn minh Hi Lạp.
-Tồn tại từ XI-IX TCN, chủ nhân của thời kỳ này là người Dorian, một
giống người khác nhưng cũng nói tiếng Hi Lạp.