Skip to document

TÂM LÝ TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON LTĐH for learner

Description
Course

Electrical Machine 1 (1051383)

17 Documents
Students shared 17 documents in this course
Academic year: 2022/2023
Uploaded by:
0followers
10Uploads
21upvotes

Comments

Please sign in or register to post comments.

Preview text

TÂM LÝ TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON

Chương I : Khái quát chung về tâm lý học trẻ em **( 5 tiết)

  1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lý học trẻ em** 1.Đối tượng nghiện cứu của tâm lý học trẻ em Sau khi trở thành một khoa học độc lập, kết quả nghiên cứu của tâm lý học được ứng dụng rộng rãi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó hình thành nên nhiều chuyên ngành tâm lý học khác nhau. Tâm lí học trẻ em là một trong số những chuyên ngành quan trọng của tâm lý học, hướng vào việc nghiên cứu đời sống tâm lí trẻ em. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học trẻ em là: _Những sự kiện, qui luật phát triển của hoạt động, của các quá trình, phẩm chất tâm lí trẻ em và sự hình thành nhân cách của trẻ trong sự phát triển của nó
  2. Nhiệm vụ nghiện cứu của tâm lý học trẻ em_ Nghiên cứu đối tượng của mình, tâm lí học trẻ em cũng tuân theo những nguyên tắc, những cơ sở lí luận của những luận thuyết tạo nên phương pháp luận của tâm lí học đại cương. Nhưng sự phát triển tâm lí trẻ em còn chịu sự tác động của những qui luật riêng và có những đặc điểm đặc trưng nên nhiệm vụ của tâm lí học trẻ em là :
  • Nghiên cứu sự phát triển của các quá trình tâm lí, đặc điểm hoạt động tâm lí và sự hình thành nhân cách của trẻ diễn ra như thế nào qua các thời kỳ, các giai đoạn phát triển nhất định và chịu sự tác động của những yếu tố nào.
  • Phân tích những điều kiện, những yếu tố, hoàn cảnh qui định sự phát triển của trẻ trong sự tác động tương hỗ giữa chúng. Phân tích những mâu thuẫn xảy ra một cách có qui luật trong quá trình đứa trẻ chuyển từ trình độ phát triển này sang trình độ phát triển khác và được giải quyết trong quá trình phát triển như thế nào? (Chỉ ra động lực của sự phát triển).
  • Nghiên cứu đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao của trẻ ở các giai đoạn phát triển khác nhau nhằm tìm ra cơ sở tự nhiên của sự phát triển tâm lý trẻ em, sự ảnh hưởng của yếu tố di truyền đối với sự phát triển tâm lý trẻ. Tâm lý học mầm non là một bộ phận của tâm lý học trẻ em, có đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu giống với tâm lý học trẻ em nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi lứa tuổi từ 0 đến 6 tuổi 1. Ý nghĩa của tâm lý học trẻ em Là thành phần quan trọng trong hệ thống khoa học sư phạm mầm non, tâm lý học trẻ em có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Tâm lý học trẻ em quan hệ mật thiết với nhiều ngành khoa học khác nhau, vừa lấy chúng làm cơ sở để nghiên cứu đối tượng của mình, vừa góp phần cho sự phát triển của các khoa học ấy. Sự hiểu biết sâu rộng về kiến thức tâm lý học trẻ em còn là điều kiện để cô giáo mầm non thực hiện tốt mọi hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
  • Tâm lí học trẻ em (TLHTE) dựa trên triết học duy vật biện chứng. Các luận điểm triết học vạch ra những qui luật chung nhất của sự phát triển các hiện tượng tự nhiên, xã hội và khẳng định tâm lí, ý thức con người do xã hội quyết định. Sự hiểu biết các qui luật chung giúp cho TLHTE có cách nhìn đúng đắn đối với sự phát triển tâm lí trẻ em, làm rõ tâm lí, ý thức và nhân cách của trẻ được nảy sinh như thế nào, bằng con đường nào. Ngược lại nghiên cứu quá trình nhận thức, điều kiện, qui luật phát triển tâm lí trẻ em lại làm sáng tỏ bản chất chung của hoạt động nhận thức của loài người và luận thuyết về sự hình thành và phát triển tâm lí theo quan điểm duy vật biện chứng. V. I. Lênin chỉ ra : Lịch sử phát triển trí tuệ của trẻ em là một trong những lĩnh vực tri thức từ đó hình thành nên lí luận chung về nhận thức và phép biện chứng. Vì vậy có thể nói rằng, những thành tựu của TLHTE là một bộ phận cấu thành của nhận thức luận và phép biện chứng trong trong triết học duy vật biện chứng.
  • Tâm lí học trẻ em dựa trên những tri thức về tâm lí con người do tâm lí học đại cương cung cấp, đồng thời TLHTE lại cung cấp cứ liệu cho tâm lí học đại cương. Nhiều hiện tượng, qui luật tâm lí của con người sẽ không thể hiểu được nếu không nghiên cứu qui luật phát sinh của chúng. Có thể nói TLHTE là một phương pháp đặc biệt để nghiên cứu tâm lí – phương pháp phát sinh mà nhờ nó các qui luật của tâm lí đại cương được xác lập.
  • TLHTE thường xuyên sử dụng thành tựu giải phẫu sinh lí và bệnh học lứa tuổi, nhất là những số liệu về sự phát triển của hệ thần kinh cấp cao của trẻ. Sự trưởng thành và hoạt động bình thường của hệ thần kinh là điều kiện tối quan trọng của sự phát triển tâm lí. Do đó nghiên cứu tâm lí trẻ em phải nắm vững kiến thức sinh lí học trẻ em.
  • TLHTE là cơ sở để nhà giáo dục xây dựng nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động giáo dục có hiệu quả cho từng lứa tuổi. Ngược lại những phương pháp giáo dục trên cơ sở thành tựu của TLHTE không những đảm bảo cho sự phát triển nhân cách của trẻ đạt hiệu quả cao mà còn phát hiện ra những tiềm năng trí tuệ và những chức năng tâm lí cao cấp khác ở mỗi lứa tuổi, biến những dự kiến tương lai của trẻ thành hiện thực, tạo điều kiện cho sự phát triển mọi mặt của trẻ em. Hiểu TLHTE còn làm cho bản thân nhà giáo dục trở nên hoàn thiện hơn. Người có kiến thức tâm lí học là người biết quan sát tinh tế, hiểu trẻ, có cơ sở để khắc phục những thiếu xót và phát triển khả năng của bản thân trẻ hình thành nên những năng lực và phẩm chất tốt đẹp. Trong công tác giáo dục mầm non (MN), từ việc tổ chức đời sống cho trẻ đến việc tổ chức các hoạt động giáo dục ở mọi nơi, mọi lúc đều phải dựa vào những đặc điểm phát triển của trẻ trong suốt tuổi MN. TLHTE giúp cho các nhà giáo dục có nhãn quan khoa học để thực hiện tốt công tác giáo dục. Bởi vậy TLHTE được coi là môn khoa học cơ bản giữ vị trí trung tâm trong các khoa học giáo dục MN.
  • Các bộ môn hợp thành khoa học giáo dục MN đều được xây dựng trên cơ sở những tri thức về sự phát triển của trẻ do TLHTE cung cấp. Thiếu sự hiểu biết đó, hệ thống các khoa học giáo dục MN sẽ mất tính khoa học. Vì vậy TLHTE được coi là môn khoa học cơ sở của các khoa học giáo dục MN.
  • Đối với giáo viên MN, để có nghiệp vụ sư phạm tốt, tay nghề vững vàng, biết xử lí các tình huống sư phạm diễn ra thường ngày ở trường, lớp MN và biết đánh giá khách quan kết quả lao động của mình thể hiện ở sự phát triển tâm lí trẻ, cô giáo cần nắm vững khoa học tâm lí trẻ em MN. Do vậy TLHTE còn được coi là môn khoa học nghiệp vụ.

từ kết quả quan sát về các sự kiện, ông còn nêu lên vai trò của yếu tố di truyền và những ảnh hưởng bên ngoài đối với sự phát triển tâm lí của trẻ sơ sinh. Ngoài ra còn có các tác giả J. Xicovki, E. Stansinkaia, A. Pavlova, Xkupina, A. Levonexki, V. Bekhơtrev cũng có nhật ký tương tự được xuất bản vào đầu thế kỷ XX. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên đây cùng với thành tựu nghiên cứu của tâm lí học đại cương, đặc biệt là tâm lí học thực nghiệm là cơ sở quan trọng tạo điều kiện cho tâm lí học trẻ em ra đời vào nửa sau của thế kỷ thứ XIX. 2.1. Sự phát triển của tâm lí học trẻ em từ đầu thế kỷ XX * Đầu thế kỷ XX, xuất hiện hai trường phái giải thích khác nhau về nguồn gốc của sự phát triển tâm lí trẻ em. - Trường phái “Nguồn gốc sinh học”, những người theo trường phái này cho rằng nhân tố sinh học mà trước hết là tính di truyền là nhân tố quyết định sự phát triển tâm lí trẻ em, còn môi trường chỉ là yếu tố điều chỉnh, yếu tố thể hiện. Sự phát triển cá thể là sự phát triển lặp lại sự phát triển của loài dưới dạng rút gọn. Cơ sở của qui luật nguồn gốc sinh học trong tâm lí học là tư tưởng về tính tự phát của sự phát triển tâm lí trẻ em, về tính độc lập của sự phát triển tâm lí trẻ em đối với giáo dục. Trường phái này cho rằng sự can thiệp vào tiến trình phát triển tự nhiên của đứa trẻ là sự tùy tiện không thể tha thứ được. Đây chính là cơ sở tâm lí học của thuyết “Giáo dục tự do”. - Trường phái “Nguồn gốc xã hội “ lại cho rằng môi trường xã hội là nhân tố tiền định sự phát triển của trẻ em. Môi trường xung quanh như thế nào thì nhân cách con người, cơ chế hành vi, những con đường phát triển của hành vi cuối cùng sẽ như thế ấy. Hai trường phái này đều phủ nhận tích cực hoạt động của cá nhân, vì vậy họ không thể lí giải nổi những trường hợp sống trong cùng môi trường xã hội như nhau lại có những đặc điểm nhân cách khác nhau hoặc trường hợp giống nhau về thế giới nội tâm, về nôi dung và hình thức hành vi lại được hình thành từ trong những môi trường xã hội khác nhau. _ Sự phát triển của tâm lí học trẻ em ở Nga và Liên Xô cũ._* - Những nhà sinh lý học nổi tiếng người Nga đã có những công trình nghiên cứu về tâm lí trẻ em trên cơ sở nghiên cứu hoạt động thần kinh cấp. Điển hình là I.Mêsênov (1829- 1905) đã có đóng góp lớn quyết định trong sự chứng minh bản chất phản xạ của tâm lí. Trên cơ sở theo dõi phản xạ của trẻ em, ông đã nêu lên những đặc điểm và chiều hướng phát triển của cảm giác và vận động của trẻ em, trí nhớ và những hình thức tư duy đầu tiên, ý chí, ngôn ngữ và tự ý thức ở trẻ em. Lần đầu tiên ông là người đã xây dựng bức tranh toàn vẹn theo quan điểm duy vật về sự hình thành hoạt động tâm lí của trẻ trong tác phẩm “Những thành phần của tư tưởng”. I.V (1849- 1936), về sau đã khám phá ra từ là tín hiệu của hệ thống tín hiệu thứ nhất, trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Xêsênov về vai trò đặc biệt của những kí hiệu tượng trưng của ngôn ngữ. - K.D (1824 -1870) đã có những đóng góp rất lớn cho tâm lí học trẻ em, với tác phẩm “ Con người là đối tượng giáo dục” ông đã đưa ra một hệ thống sư phạm dạy trẻ hoàn chỉnh trên cơ sở thấy nguyên nhân cơ bản và điều kiện của sự phát triển các mặt nhân cách của trẻ em. Ông đặc biệt chú ý đến vai trò của hoạt động tích cực của trẻ trong sự phát triển của nó, nhất là sự phát triển của trí tuệ. Ông nhấn mạnh việc dạy học và giáo dục muốn đạt kết quả thì dạy học phải phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi và

nhà giáo dục phải phát huy tính tích cực hoạt động ở trẻ. Ngoài ra Usinxki còn chỉ ra vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển trí tuệ và đạo đức. Các công trình của Xêsênov và Usinxki ngày nay vẫn được khai thác sử dụng. - Đầu thế kỷ XX, ở Nga xuất hiện trường phái Nhi đồng học gắn liền với tên tuổi của các tác giả V. Becterev, A. Nachaev, G Rosslimo. Nhi đồng học đã kết hợp một cách máy móc những quan niệm tâm lí học, sinh lí học, sinh vật học về sự phát triển của trẻ em. Nhi đồng học xuất hiện như một khoa học phức hợp chứa đựng những kết quả nghiên cứu của những ngành khoa học chuyên biệt nghiên cứu về con người đang phát triển. Nhưng họ lại không tiến hành tổng hợp khoa học mà lại hiểu một cách máy móc. Họ cho rằng sự phát triển tâm lí của trẻ em do hai nhân tố quyết định trực tiếp là yếu tố di truyền và yếu tố môi trường. Với quan điểm duy tâm và máy móc, Nhi đồng học đã bị phê phán mạnh mẽ ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, vì Nhi đồng học đã tỏ ra là một lí thuyết phản tâm lí học. - Thời kỳ này còn có sự đóng góp tích cực của P. Blônxki (1884 – 1941) trong việc xây dựng nền sư phạm và tâm lí học Xô viết. Mặc dù theo thuyết “nguồn gốc sinh học” cho rằng sự phát triển tâm lí trẻ như là sự lặp lại ngắn ngủi sự phát triển lịch sử của loài người, nhưng ông đã đặt ra và giải quyết thành công vấn đề sự phát triển ý thức của người trưởng thành và bảo vệ quan điểm duy vật về tâm lí và sự phát triển của nó ở trẻ em. - Những tư tưởng của L. Vưgôtxki (1896 – 1934) có ý nghĩa chủ yếu đối với sự phát triển tâm lí học trẻ em Xô viêt. Ông cho rằng : Lao động, hoạt động công cụ đã làm biến đổi kiểu hành vi của con người, khiến con người khác với động vật. Sự khác biệt này thể hiện ở tính gián tiếp của hoạt động. Tính gián tiếp có được là do hoạt động tâm lí con người sử dụng các kí hiệu ( từ, chữ số...) tương tự như con người sử dụng công cụ trong hoạt động thực tiễn, bên ngoài. Xét về mặt tâm lí học, đặc điểm giống nhau giữa công cụ và kí hiệu là ở chỗ, chúng cho phép thực hiện hoạt động một cách gián tiếp. Sự khác nhau giữa công cụ và kí hiệu thể hiện ở phương hướng khác nhau của chúng. Công cụ hướng ra bên ngoài, nó gây ra những biến đổi đối tượng. Ký hiệu hướng vào bên trong, nó tác động tới hành vi, tâm lí của con người. Việc sử dụng kí hiệu đã làm biến đổi toàn bộ hoạt động tâm lí của con người tương tự như việc sử dụng các công cụ làm biến đổi hoạt động tự nhiên của các cơ quan và tăng cường mở rộng vô hạn những khả năng hoạt động tâm lí. Vưgôtxki đề cao vai trò của dạy học. Ông cho rằng sự phát triển của con người diễn ra trong quá trình nắm vững tất các phương tiên (công cụ và kí hiệu) bằng con đường giáo dục. Vì vậy dạy học chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ hệ thống tổ chức cuộc sống của trẻ, đồng thời quyết định sự phát triển tâm lí trẻ. Do đó không thể xem xét sự phát triển tâm lí của trẻ bên goài môi trường xã hội mà trong đó tiến hành các phương tiện kí hiệu cho phép nắm vững kinh nghiệm của thế hệ đi trước., cũng không thể hiểu sự phát triển tâm lí của trẻ bên ngoài giáo dục.. Tư tưởng của Vưgôxki thể hiện tư tưởng duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người. Khi nghiên cứu sự hình thành các tác động như là các kí hiệu, ông đã nhận thấy : Thoạt đầu ý nghĩa của tác động do hoàn cảnh khác nhau tạo ra, còn sau đó những người xung quanh đứa trẻ tạo ra. Ông cũng theo dõi qui luật này qua những ví dụ về sự hình thành ngôn ngữ ở đứa trẻ. Từ ngữ biểu đạt quan hệ với sự vật.

khác là từ sự sắp xếp lại các chức năng, các thao tác, nó xuất hiện phụ thuộc vào sự phát triển diện hoạt động của trẻ. Lêonchiev nhấn mạnh đến những quan hệ với thế giới xung quanh mà đứa trẻ tham gia vào, thực chất đó là những quan hệ xã hội. Vì vậy, mỗi hoạt động của trẻ biểu hiện không chỉ quan hệ của nó đối với chính đối tượng mà còn thể hiện những quan hệ xã hội hiện tại nữa. Ở lứa tuổi mầm non, Lêonchiev nghiên cứu về hoạt động của trẻ với tư cách là động lực cơ bản của sự phát triển tâm lí trong giai đoạn này. Ông đã phân tích sâu sắc cơ sở tâm lí học của hoạt động vui chơi - hoạt động chủ đạo của tuổi mẫu giáo, chỉ ra những nội dung cơ bản và những đặc điểm đặc trưng của nó. Tác giả D.Bônin (sinh năm 1904) chuyên nghiên cứu về tâm lí của trẻ thơ và học sinh. Ông đã tiến hành những công trình nghiên cứu cơ bản về trò chơi và ngôn ngữ của trẻ, đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 1 và tuổi thiếu niên. Thống nhất với quan điểm của Lêonchiev ông cho rằng : Tất cả trẻ em, không phân biệt chủng tộc và các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể ở nơi chúng sinh ra , ngay từ lúc ra đời đã có những đặc điểm hình thái – sinh lí của con người nói chung về cơ bản là như nhau. Những đặc điểm này làm nền tảng cho toàn bộ sự phát triển tâm lí sau này và đảm bảo cho trẻ đạt được trình độ phát triển cần thiết trong những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể của đời sống xã hội. Mức độ phát triển thể chất của trẻ ở mỗi thời điểm nhất định và những đặc điểm thần kinh cấp cao của nó là điều kiện cần thiết cho sự phát triển với tư cách là một thành viên của xã hội, phát triển tâm lí, ý thức của trẻ.Tuy nhiên những cái đó là điều kiện cần chứ bản thân chúng không hề định ra tiến trình cũng như mức độ phát triển tâm lí trẻ. Trong quá trình phát triển, đứa trẻ tham gia vào những quan hệ với thế giới đồ vật và hiện tượng xung quanh nó do các thế hệ trước tạo ra. Trẻ không thụ động thích nghi với thế giới đồ vật của loài người mà chủ động tiếp thu tất cả những thành tựu của loài người, nắm lấy nó. Những năng lực và chức năng hình thành ở con người trong quá trình ấy là các cấu tạo tâm lí mới. Đối với những cấu tạo này, các cơ chế và quá trình bẩm sinh di truyền chỉ là điều kiện cần thiết bên trong giúp cho cấu tạo tâm lí mới có thể xuất hiện, nhưng những cơ chế và quá trình ấy không qui định cả các thành phần lẫn chất lượng chuyên biệt của các cấu tạo mới ấy. Về nguồn gốc sự phát triển tâm lí, Encônin cho rằng giáo dục và người lớn có vai trò quan trọng. Chỉ thông qua người lớn, nhờ người lớn đứa trẻ mới nắm được sự phong phú của hiện thực. Hoạt động của trẻ với thế giới bao giờ cũng phải lấy quan hệ giữa trẻ với người lớn làm khâu trung gian. Ông còn nhấn mạnh rằng, chỉ có hoạt động của chính bản thân đứa trẻ nắm lấy thực tại mới là động lực của sự phát triển tâm lí và ý thức của trẻ. Hoạt động ấy phải thông qua quan hệ với người lớn - người mang trong mình toàn bộ sự phong phú mà loài người đã tích lũy được. Encônin còn đi sâu nghiên cứu về các giai đoạn phát triển tâm lí trẻ em. - Một tác giả nổi tiếng của nền tâm lí học Liên Xô (trước đây) cần nhắc tới là P. Ganperin (sinh năm 1902). Các công trình nghiên cứu chủ yếu của ông đề cập đến lý thuyết hình thành trí tuệ theo giai đoạn. Tư tưởng của thuyết này là : Việc tiếp thu tri thức được thực hiện trong quá trình hoạt động của trẻ em trong điều kiện các em thực hiện một hệ thống hành động nhất định. Con người không tiếp thu hoạt động tư duy và tự nhiên dưới dạng có sẵn mà học tập, suy nghĩ, lĩnh hội các thao tác tư duy. Nhà giáo dục phải khéo léo điều khiển quá trình này, kiểm tra không chỉ kết quả tư duy mà còn cả tiến trình hoạt động nữa. Theo quan điểm của Ganperin, hình thức xuất phát của hoạt động tâm lí là

hình thức vật chất bên ngoài, thực hiện nhằm biến đổi các đối tượng của thế giới xung quanh. Những thủ thuật mới của hoạt động tâm lí, tư duy bên trong không thể được lĩnh hội bằng cách nào khác là thông qua giai đoạn hoạt động vật chất bên ngoài - Hoạt động với những đối tượng thực hay mô hình. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn nói to, giải thích tiến trình của thao tác. Hành động từ hình thức bên ngoài biến thành hình thức bên trong. Đó là sự vận dụng các tri thức trong các thao tác tư duy. Tiến trình và chất lượng lĩnh hội được quyết định bởi bộ phận định hướng của hoạt động nhận thức. Đó là toàn bộ những điều kiện khách quan mà chủ thể nhận thức hướng vào đó khi thực hiện hành động. - Trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lí trẻ em tiền học đường, có các nhà tâm lí học : A.Baọjets với tác phẩm tiêu biểu là “Cơ sở tâm lí học của giáo dục tiền học đường”; L.A với “Chẩn đoán sự phát triển trí tuệ của trẻ tiền học đường”. V.X với “Tâm lí học tiền học đường”; “ Sự phát triển trí tuệ của trẻ em tiền học đường”... Tóm lại , hầu hết các mặt của đời sống tâm lí trẻ em đều được các nhà tâm lí học Xô viết nghiên cứu tỉ mỉ, sâu sắc ở tất cả các lứa tuổi. Kết quả nghiên cứu không chỉ được tích lũy dưới dạng tài liệu phong phú mà còn được áp dụng có hiệu quả vào thực tiễn sư phạm. Cho đến nay, những quan điểm lý luận và những nghiên cứu thực nghiệm của nền tâm lí học Xô Viết có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lí học trẻ em ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. _ Tâm lí học trẻ em ở các nước phương Tây_* Ở các nước phương Tây, thời kỳ này có nhiều tác giả nghiên cứu về tâm lí học trẻ em. Những nghiên cứu này có thể khái quát thành 3 khu vực : Tâm lí học phát sinh: Gồm những thành tựu nghiên về các giai đoạn phát triển của trẻ từ khi mới sinh cho đến tuổi trưởng thành, đặc biệt là lứa tuổi tiền học đường. Tâm lí học chức năng : Đi sâu vào một số mặt của đời sống tinh thần và hành vi theo các giai đoạn phát triển, lựa chọn trong số đó những vấn đề cần thiết và chuyên biệt hơn phục vụ cho các nhà giáo dục. Tâm lí học sai biệt :Nhấn mạnh những biến đổi tâm lí theo tính cách, giới tính và môi trường. Những tác giả nổi tiếng gồm : J (Thụy sĩ) với những công trình “Ngôn ngữ và tư duy ở trẻ em” (1924), “Tâm lí học và trí thông minh” (1947”, “Sự hình thành biểu tượng ở trẻ em” (1945). H. Wallon (Pháp) với “Sự phát triển tâm lí trẻ em” (1941), “Nguồn gốc của tư duy trẻ em” (1945), “Nguồn gốc của tính cách trẻ” (1954)... S (Áo) với “Nhập môn phân tâm học” (1921). Héron (Pháp) với “Tâm lí học sai biệt” (1949), “Sự phát triển của trí nhớ” (1910)... A (Mỹ) với “Trẻ nhỏ dưới nền giáo dục hiện đại” (1949), “Trẻ em từ 5 đến 10 tuổi” (1949). Ngoài ra còn có những tác giả khác như R (Pháp), Ch (Đức), L. Terman (Mỹ), J. Varendouk (Bỉ) G (Pháp)... Ở những nước này, tâm lí học trẻ em phát triển nhanh và có xu hướng chia ra theo những ngạch khác nhau, dựa theo lĩnh vực nghiên cứu và phương pháp được tuyển dụng, có những đặc điểm đặc trưng cho mỗi nước. Sự phát triển này được thể hiện bởi số lượng lớn những công trình được công bố, sự thành lập những học viện và những tạp chí chuyên ngành, sự tổ chức hội nghị Quốc tế dành cho tâm lí học trẻ em. Tâm lí học trẻ em sử dụng những thuật ngữ chuyên biệt, những phương pháp được chính xác hóa, những cách lí giải của nó được thay đổi. Sự

những quan sát tỉ mỉ 3 đứa con của mình, Piaget đã phát hiện ra 6 giai đoạn trong sự hình thành trí tuệ cảm giác - vận động của trẻ em thường kết thúc vào khoảng một năm rưỡi. Từ những hệ thống tác động tự động mà trẻ sẵn có khi mới sinh ra, đứa trẻ đồng hóa vào hoạt động của hệ thống này những đối tượng ngày càng đa dạng rồi dần dần biến đổi chúng để thích ứng với cấu tạo của các sự vật và liên hệ không gian và thời gian giữa các sự vật. Cuối cùng đi đến một lược đồ phản xạ hệ thống ngày càng nhiều cơ động hơn rồi sẽ được tổ chức thành một cấu trúc lược đồ tổng quát xác định nên trí tuệ cảm giác - động tác. Vào những năm 40 của thế kỷ XX, cùng với một số tác giả khác, Piaget đi sâu vào vấn đề quan trọng là sự chuyển hóa từ trí tuệ cảm giác vận động sang trí tuệ thao tác bằng cách đi sâu phân tích sự bắt chước, trò chơi giấc mơ của trẻ em nhỏ tuổi. Ông đã chỉ ra tư duy được hình thành như thế nào trong lòng của cảm giác vận động. Sau công trình về sự thành thành các thao tác thời gian và thao tác vận động ở trẻ năm 1946, Piaget tổng hợp lại sự phát triển trí tuệ của trẻ và điều kiện sự phát triển của nó trong tác phẩm “Tâm lí học về trí thông minh” (1947). Cùng với các cộng sự ông tiếp tục nghiên cứu sự hình thành thao tác không gian và hình học ở tuổi thiếu niên, thao tác phân loại và phân hạng. Những vấn đề này được trình bày trong cuốn “Qúa tình hình thành các cấu trúc logic sơ đẳng”. Song song với những công trình nghiên cứu về trí tuệ và logic, ông có những công trình nghiên cứu quan trọng về tri giác và mối quan hệ của nó với trí tuệ. Những nghiên cứu này được tổng hợp trong tác phẩm “Các cơ chế của tri giác “(1961), mối quan hệ giữa trí tuệ và tình cảm cũng được ông nghiên cứu. Henri Wallon nhà tâm lí học người pháp (1879 – 1962) cũng giống như Piaget khi nghiên cứu tâm lí trẻ em, ông nhấn mạnh đến chất lượng của sự phát triển tâm lí trẻ. Wallon coi sự phát triển tâm lí như là sự xây dựng từ từ được thực hiện bằng tác động qua lại giữa cá nhân và môi trường. Wallon chủ yếu nhấn mạnh vai trò của xúc cảm trong sự phat triển ban đầu của con người và coi sự phát triển toàn bộ nhân cách là quan trọng. Ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển tâm lí trẻ em, ông cho rằng xúc cảm có một giá trị ưu tiên về chức năng. Những phản ứng mà Wallon gọi là cảm xúc âm điệu là dấu hiệu đầu tiên của sự phát triển tâm lí trẻ em. Xúc cảm đối với ông là bước phát triển trung gian giữa trình độ sinh lí - Những phản ứng có tính phản xạ - và trình độ tâm lí cho phép trẻ thích ứng dần với thế giới bên ngoài. Thế giới bên ngoài đầu tiên là con người, từ đó trẻ nhận ra sự an ủi, chăm sóc làm thỏa mãn nhu cầu của nó. Những xúc cảm sơ khai của trẻ em - khả năng đứa trẻ có thể cảm nhận được thể hiện sự dễ chịu hay khó chịu. S. Freud (1856 -1939 ), bác sĩ tâm thần học người Áo là người khởi xướng ra Phân tâm học trẻ em. Những tìm tòi đầu tiên của ông không nhằm vào tiến trình phát sinh của đời sống tâm lí mà nhằm vào sự vận hành của nó. Từ đó ông đã phát hiện ra những đặc điểm chưa từng được nói đến trong nghiên cứu các biểu hiện về thần kinh, trong phân tích giấc mơ, hẫng hụt. Sự tìm tòi đó dẫn tới hai phát hiện độc đáo : cái vô thức và cái bản năng. Những quan điểm cơ bản của Phân tâm học tóm tắt ở những điểm sau : Tâm lí con người gồm hai khu vưc, một bên là ý thức, một bên là vô thức. Tình cảm và hành vi của con người chủ yếu do vô thức quyết định, có hiểu được cái vô thức mới hiểu được ý thức. Con người khi sinh ra đã có sẵn những bản năng, đó là những xung lực thôi thúc con người có những hành vi ứng xử nhất định. Được thỏa mãn thì tạo ra khóa cảm, không được thỏa mãn thì tạo ra hẫng hụt ấm ức. Những nhu cầu và bản năng về về ăn uống, tính

dục, đại tiểu tiện và nói chung về “xác thịt” có chung một gốc là thể chất con người và cũng dễ chuyển hóa từ cái này sang cái khác, nếu về mặt này không được thỏa mãn thì tìm lối thoát về phía khác. Theo Freud bản năng tính dục chiếm ưu thế, chi phối tình cảm của con người. Để thỏa mãn những nhu cầu bản năng phải vượt qua thực tế. Thực tế này có hai mặt, một bên là khả năng tự nhiên, một bên là những ràng buộc về xã hội. Trẻ sinh ra hoàn toàn bất lực, phụ thuộc vào sự chăm sóc của người lớn, không phải được thỏa mãn ngay những đòi hỏi. Có những đòi hỏi bị trì hoãn nhiều khi bị cấm đoán, có những tình cảm ý nghĩ không được phép bộc lộ, nhiều tâm tư bị dồn nén xuống vô thức. Phân tâm học có gắng tìm hiểu những cơ cấu và cơ chế tâm lí được hình thành trong vô thức qua quá trình phát triển từ bé đến lớn, trong cuộc sống bình thường cũng như trong trạng thái bệnh lí. Theo Freud nhân cách con người gồm 3 phần : cái “Nó”, cái “Tôi” và cái “Siêu tôi”. Cái “Nó” gồm tất cả những xung lực bản năng thôi thúc đứa trẻ đòi hỏi được thỏa mãn để tìm khoái cảm. Về nguồn gốc, cái “nó” là một hệ thống nhu cầu có sức mạnh và động lực nhất định. Trong tâm lí, cái “nó” đại diện cho những đòi hỏi của thể xác, đằng sau nó là những bản năng. Cái “nó” có tính chất vô thức. Mâu thuẫn giữa đứa trẻ và thực tế dần dần tạo ra cái “Tôi”, trẻ cảm nhận về bản thân mình đối lập với các đồ vật và những người khác, tức là cảm nhận được thực tế. Đó là nguồn gốc của cái tôi, sau này chính là ý thức của con người biết suy nghĩ và theo đòi hỏi của thực tế chứ không theo dục vọng của bản thân. Những cấm đoán, khuyên bảo của người lớn được đứa trẻ nhập tâm, biến thành vô thức chi phối hành vi của trẻ đó là cái “Siêu tôi” (Tiềm thức). Freud cho rằng, việc xuất hiện cái “siêu tôi” là một sự kiện vừa có tính cá nhân, vừa có tính chất lịch sử. Cái siêu tôi được tạo ra và hoạt động như đại diện cho cá lực lượng kiềm chế của cha mẹ và đảm nhiệm chức năng kiểm soát cái tôi, ra lệnh cho cái tôi. Theo ông 3 cấp độ này luôn xảy ra xung đột. Một tác giả khác có nhiều cống hiến cho tâm lí học trẻ em phương Tây và cả thế giới là A (1857 – 1911) và bác sĩ T. Simon. Hai ông đã xây dựng phương pháp đo lường tâm lí trẻ em thể hiện trong tác phẩm” Sự đo lường trí tuệ ở trẻ em” (năm 1905). Từ đây trong tâm lí học thực hành xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà tâm lí học xây dựng nên hệ thống trắc nghiệm chính xác để theo dõi, đánh giá, định mức, so sánh tiến trình phát triển của trẻ theo độ tuổitreen từng trẻ và giữa những trẻ bình thường với trẻ bệnh tật. 2.. Sự hình thành và phát triển tâm lí học trẻ em ở Việt Nam + Ở nước ta, tâm lí học lúc đầu chỉ xuất hiện với tính chất là một môn khoa học trong các trường trung học chuyên khoa và trường cao đẳng sư phạm dưới chế độ thực dân Pháp. Nội dung chương trình là tâm lí học Nhị Nguyên luận duy tâm chủ quanTinh thần ấy tiếp tục ở các vùng Pháp tạm chiếm cho đến năm 1954 và cả trong chương trình, sách giáo khoa xuất bản trong nhiều năm ở miền Nam trước năm 1975. Tâm lí học ở miền Nam trước năm 1975 chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tinh thần duy tâm, nội quan, nhân vi cùng với tâm lí học hành vi và tâm lí học Freud. + Ở miền Bắc sau chiến thắng Pháp 1954, Nhà nước quan tâm đến các ngành khoa học trong đó có tâm lí học. Năm 1958, tổ Tâm lí học đầu tiên ở ta ra đời được đặt trong trường Đại học Sư phạm Hà nội. Một số cán bộ được phân công học tập và giảng dạy

Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu của cán bộ trung tâm, viện khoa giáo dục và cán bộ giảng dạy tại các trường đại học đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu về các mặt của đời sống tâm lí trẻ em Việt Nam. 3. Quan niệm về trẻ em và sự phát triển tâm lý trẻ em 3.1 niệm về trẻ em 1. Trẻ em là gì? Trẻ em là một khái niệm lịch sử, mỗi thời đại khác nhau đều có những quan niệm khác nhau về trẻ em. + Thời kỳ đầu tiên của xã hội loài người, chưa có khái niệm về trẻ em. Trong nhận thức thông thường, người ta coi trẻ em giống như người lớn thu nhỏ, trẻ em và người lớn khác nhau chỉ về tầm cỡ, kích thước mà không có sự khác nhau về chất. Bởi vì vốn kinh nghiệm xã hội chưa nhiều, trẻ em có thể trực tiếp bắt chước người lớn một cách nhanh chóng những công việc trong sản xuất và sinh hoạt. Thực tế người ta đã tạo cho trẻ em những công cụ lao động giống như người lớn, chỉ khác về kích thước. + Đến thời kỳ trung cổ, trẻ em đã được người lớn quan tâm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu, song vẫn không được nhìn nhận đúng và được bảo vệ như ngày nay. Tuổi thơ của các em quá ngắn ngủi, trẻ không có đồ chơi và quần áo riêng theo kiểu trẻ con. Chúng mặc quần áo theo kiểu người lớn, chơi những trò chơi giải trí theo kiểu người lớn. Khi chúng đủ sức mạnh về thể lực, thường là lên 7 tuổi trẻ được kết nạp vào thế giới lao động của người lớn, làm đồ thủ công, gặt lúa..ùng với người lớn. + Từ thời kỳ phục hưng đến thời kỳ cận đại, sản xuất và các mặt của đời sống phát triển mạnh mẽ, vốn kinh nghiệm xã hội tích lũy được ngày càng nhiều. Trong sản xuất và đời sống, trẻ em không thể bắt chước người lớn một cách đơn thuần như trước đây, muốn làm được như người lớn, trở thành người lớn chúng phải học, phải được người lớn dạy dỗ. Thực tế này đã khiến xã hội phải quan tâm nhiều đến trẻ em, trong các tác phẩm triết học, tôn giáo, giáo dục học đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về trẻ em, dẫn tới việc đánh giá, giáo dục các em cũng khác nhau. Tuy nhiên những quan điểm này còn có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, đạo Tin Lành cho rằng, trẻ em là “Quỉ dữ” nên cần phải giáo dục bằng những biện pháp hà khắc để trở thành người. Phái “Nhi đồng học” lại cho rằng trẻ em mới sinh ra chỉ là động vật vì nó không biết gì, không biết nói, không có ý thức. Nhà triết học John Locke (1632 -1704) có quan niệm đúng đắn hơn so với các quan niệm trên về trể em. Theo ông, trí óc trẻ em mới sinh như “một tấm bảng sạch”, những trải nghiệm được trẻ nhận thức và khắc lên đó. Ông còn lưu ý các bậc cha mẹ khi giáo dục con phải thông qua lí lẽ thích hợp chứ không phải là bằng kỉ luật hà khắc, phải cân bằng giữa nuông chiều và nghiêm khắc khi kiểm soát hành vi của trẻ. Đặc biệt thế kỉ thứ XVII, nhà triết học đồng thời là nhà văn, nhà giáo dục học J Rutxo người Pháp ( Jean Jacques Roussau : 1712 - 1778) có cách nhìn nhận hết sức tiến bộ về trẻ em. Ông cho rằng, trẻ em là trẻ em. Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em có cách suy nghĩ riêng, cách cảm thụ riêng không giống với người lớn. Người lớn không phải lúc nào cũng hiểu được trẻ em. Ông đưa ra quan điểm giáo dục tự nhiên và tự do. Trẻ em cần có sự hướng dẫn nhẹ nhàng của người lớn để cho bản năng và xu hướng tự nhiên phù hợp với trật tự xã hội. Người lớn phải tôn trọng và phát huy những khả năng và lòng ham hiểu biết bẩm sinh của trẻ, để trẻ tự khám phá hiện tượng trong thực tế, không nên kiềm chế sự phát triển tự nhiên của trẻ thông qua việc chi phối trẻ.

  • Vận dụng quan điểm của triết học duy vật biện chứng, tâm lí học Mácxit quan niệm, trẻ em là một thực thể đang phát triển Theo phép biện chứng, hiện thực là cái toàn thể đang vận động và phát triển, mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một yếu tố tạo thành, là một cột mốc đánh dấu những chặng đường phát triển khác nhau của chính cái toàn thể ấy. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội (mỗi cột mốc) chỉ xuất hiện một lần trong lịch sử, vận động và phát triển theo qui luật riêng chỉ dành cho nó. Vận dụng tư tưởng này vào sự phát triển một thế hệ người, trẻ em và người lớn cũng chỉ những cột mốc đánh dấu những chặng đường phát triển khác nhau của thế hệ ấy. Do vậy trẻ em là trẻ em, trẻ em vận động và phát triển theo qui luật vốn có của nó. Người lớn vận động và phát triển theo qui luật riêng của người lớn. Điều kiện sống của các thế hệ người ở các thời kỳ lịch sử khác nhau là rất khác nhau. Toàn bộ những điều kiện xã hội - lịch sử của một thời đại tạo ra trẻ em của riêng mình. Có thể nói trẻ em là kết tinh của lịch sử cho đến lúc đó, mỗi đứa trẻ (cùng với thế hệ của mình) đi qua một lần duy nhất trên chặng đường lịch sử (Sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, nhi đồng, thiếu niên, đầu tuổi thanh niên) nối tiếp nhau trên một chặng đường thời gian, theo qui luật riêng của nó trong sự phụ thuộc vào những điều kiện xã hội lịch sử đương thời. Vì vậy không những phải hiểu trẻ em phát triển theo những qui luật khác nhau mà còn phải hiểu ở mỗi thời đại kinh tế - xã hội khác nhau, trẻ em lại phát triển theo những qui luật khác nhau.
  • Trong điều kiện phát triển nhanh về mọi mặt của đời sống xã hội hiện nay, trẻ em có đặc trưng cơ bản sau:
  • Cơ hội tiếp cận nền văn hóa dễ dàng, thuận lợi.
  • Tuổi thơ kéo dài, thời gian chuẩn bị để bước vào lao động của người lớn lâu hơn.
  • Thể chất : Cân nặng, chiều cao trung bình tăng lên; Tuổi dậy thì đến sớm từ 2 đến 3 năm.
  • Trí tuệ: Khôn sớm, hiểu biết nhiều
  • Sự phát triển lệch lạc ở trẻ em cũng phức tạp hơn và khó lường. Như vậy, không có trẻ em chung chung, trừu tượng, chỉ có trẻ em của từng thời kỳ lịch sử - xã hội nhất định. Do đó không thể đem những gì thuộc qui luật phát triển của người lớn áp đặt cho trẻ em, cũng không thể dùng phương pháp giáo dục trẻ em của thời kỳ nông nghiệp lạc hậu để giáo dục trẻ em của thời kỳ đại công nghiệp. 3. Quan niệm về sự phát triển tâm lý trẻ em _3. Các quan niệm khác nhau về sự phát triển tâm lí trẻ em
  • Thuyết tiền định:_ Các đại biểu điển hình của thuyết tiền định là Thordike (Mỹ), S (Anh).. rằng những đặc điểm tâm lí là những cấu tạo bẩm sinh, do các tiềm năng sinh vật gây ra, con người có tiềm năng đó từ khi mới ra đời. Sự phát triển tâm lí chỉ là quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn, bộc lộ dần những thuộc tính ấy. Trình tự xuất hiện các thuộc tính nào đó, mức độ mà chúng đạt được, sự thay thế giai đoạn này bằng giai đoạn khác đều được định sẵn bằng con đường di truyền. Đối với họ, môi trường chỉ là yếu tố điều chỉnh, vai trò của giáo dục bị hạ thấp. * Thuyết duy cảm : Những người theo thuyết duy cảm cho rằng môi trường là nhân tố tiền định sự phát triển tâm lí trẻ em. Họ quan niệm trẻ em như một tờ giấy trắng, do ảnh hưởng của môi trường mà tâm lí của trẻ bộc lộ dần ở trên đó. Môi trường xung quanh như thế nào thì nhân cách và cơ chế hành vi, con đường phát triển như thế đó. Môi
  • Từ lọt lòng - 15 tháng
  • 15 tháng đến 36 tháng
  • 3 - 6 tuổi : tuổi mẫu giáo
  • 6 -12 tuổi : Nhi đồng
  • 12 - 14, 15 tuổi : Tuổi thiếu niên
  • 15 - 17, 18 tuổi : Tuổi đầu thanh niên 4. Các yếu tố chi phối sự phát triển tâm lý trẻ em 4. Nền văn hóa và sự phát triển tâm lý trẻ em Văn hóa là một khái niệm rộng và phức tạp, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Tại Hội nghị quốc tế họp tại Mêhicô (1982), do UNSCO tổ chức, đại biểu đại diện cho hơn 100 nước đã đưa ra 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tuyên bố chung, hội nghị thống nhất chấp nhận về khái niệm văn hóa như sau : Theo nghĩa rộng “V ăn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội”. Như vậy văn hóa không chỉ thuần túy là các hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà bao hàm cả phương thức sống, những quyền cơ bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng. Nói cách khác văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lịch sử, là biểu hiện trình độ của xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
  • Người ta thường chia văn hóa thành hai hình thức: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính ước lệ.
  • Văn hóa có đặc điểm là luôn vận động và phát triển. Văn hóa vừa mang tính phổ biến, có đặc điểm chung của mọi thể chế cộng đồng (có những chuẩn mực giá trị chung cho cả thể giới), vừa mang đặc điểm riêng biệt của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng (bản sắc văn hóa dân tộc).
  • Văn hóa và con người có mối quan hệ hữu cơ với nhau, văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra, mặt khác văn hóa lại tạo nên bản chất nhân cách của mỗi con người trong xã hội. Văn hóa vừa là điều kiện vừa là nội dung của sự phát triển tâm lí trẻ em. * Trẻ em lĩnh hội nền văn hóa bằng những con đường khác nhau.
  • Con đường tự phát là sự tiếp nhận một cách tự nhiên những yếu tố của nền văn hóa được cụ thể hóa trong hoàn cảnh sống bằng cách bắt chước. Con đường tiếp thu này mang tính tùy tiện, thiếu kế hoạch nên trẻ em bắt chước cả những cái tốt lẫn cái xấu của môi trường xung quanh.
  • Con đường tiếp nhận một cách tự giác thông qua giáo dục Giáo dục là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của người lớn đối với trẻ em nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất nhân cách đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Đây là con đường chủ yếu để hình thành nhân cách cho trẻ em và để phát triển xã hội.
  • Giáo dục định hướng sự phát triển tâm lí của trẻ em và lãnh đạo sự phát triển ấy thông qua nội dung và phương pháp tác động phù hợp.

  • Giáo dục đem lại cho trẻ em những khả năng mà bằng sự tác động tự phát của môi trường không thể có được.

  • Giáo dục có thể bù trừ những thiếu sót của yếu tố bẩm sinh di truyền làm ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tâm lí trẻ (giáo dục trẻ khuyết tật) và tạo mọi điều kiện triển tối đa những khả năng sẵn có của trẻ (giáo dục trẻ em có năng khiếu).

  • Giáo dục tác động qua lại với môi trường xã hội, phát huy những thuận lợi đối với sự phát triển tâm lí trẻ, đồng thời làm suy yếu những tác động bất lợi ảnh hưởng tiêu cực đến nhân cách của trẻ, uốn lại những nét tính cách tiêu cực trong nhân cách trẻ em do ảnh hưởng xấu của môi trường.

  • Giáo dục còn tác động đến “vùng phát triển gần nhất” (đó là độ chênh lệch giữa những cái trẻ có thể làm được với sự hướng dẫn giúp đỡ của người lớn và những cái trẻ tự làm lấy một mình), tạo điều kiện cho tâm lí của trẻ phát triển nhanh mạnh và đúng hướng. Độ lớn của vùng phát triển gần nhất là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tiềm lực phát triển của trẻ ở giai đoạn ấy. Giáo dục đã đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển. Tóm lại , giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lí trẻ em. Tuy nhiên việc tiếp nhận những tác động của giáo dục còn phụ thuộc vào khả năng của trẻ, do vậy không nên coi giáo dục là vạn năng. Mọi quá trình giáo dục muốn kéo theo sự phát triển phải tính đến khả năng của các em. * Văn hóa gia đình đối với trẻ em tuổi MN có vai trò đặc biệt quan trọng

  • Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên của trẻ. Các thành viên trong gia đình quan hệ, gắn bó với nhau bằng tình yêu thương ruột thịt, mọi người có trách nhiệm lo lắng cho nhau. Nhất là trẻ em thường là đối tượng được quan tâm chăm sóc, yêu thương nhiều nhất của mọi người thân trong gia đình. Gia đình là tổ ấm của trẻ, sống trong gia đình, trẻ có cảm giác an toàn từ đó trẻ yên tâm, mạnh dạn trong giao tiếp và khám phá môi trường xung quanh, tâm lí phát triển tốt. Nếu mất cảm giác an toàn, trẻ sợ hãi, thu mình lại dễ thụ động buồn bã, không tích cực hoạt động, làm ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tâm lí.
  • So với nhà trường MN, gia đình là môi trường phong phú có nhiều thuận lợi về phương tiện giáo dục trẻ. Trong gia đình trẻ được sống trong mối quan hệ đa dạng, với nhiều người ở những lứa tuổi, vị trí xã hội khác nhau, được tiếp xúc với nhiều đồ vật thật, nhờ vậy trẻ có điều kiện thăm dò thử nghiệm một cách hứng thú.
  • Qúa trình giáo dục ở gia đình cũng có nhiều thuận lợi so với giáo dục ở trường MN
  • Giáo dục ở gia đình mang tính cá biệt cao
  • Giáo dục ở gia đình được thực hiện trên cơ sở tình yêu thương ruột thịt, vì vậy trẻ em được chăm sóc tỉ mỉ chu đáo, phát triển tốt cả về thể chất và tâm lí.
  • Giáo dục gia đình gắn liền với những tình huống đa dạng của cuộc sống thường ngày thông qua tấm gương của người lớn trong gia đình. Việc dạy trẻ diễn ra thường xuyên, có thể tiến hành ở mọi nơi, mọi lúc trong tất cả các hoạt động, mang đượm màu sắc nghệ thuật. Vì vậy trẻ dễ dàng tiếp thu một cách tự nhiên những tác động giáo dục từ phía gia đình. Với những đặc điểm thuận lợi và phương thức tác động đặc biệt của gia đình, văn hóa gia đình có ảnh hưởng tuyệt đối và thường để lại dấu ấn sâu sắc trong nhân cách của mỗi người. Do vậy tục ngữ Việt Nam có câu “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy”. Sự ảnh hưởng tốt hay xấu của văn hóa gia đình đến nhân cách của trẻ em phụ thuộc trực tiếp vào trình độ học vấn và ý thức trách nhiệm giáo dục trẻ của người lớn trong gia đình, đặc biệt các bậc làm cha, mẹ. 4. Hoạt động và sự phát triển tâm lý trẻ em
  • Hoạt động của cá nhân là yếu tố quan trọng nhất quyết định trực tiếp sự phát triển tâm lí của trẻ em. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động, trẻ mới lĩnh hội được những

nhanh, đổi với trẻ MN sự phát triển diễn ra nhanh tới mức sự thay đổi có thể tính được trong tháng, trong tuần. Tốc độ này khó có thể tìm thấy ở những giai đoạn sau. Trong tiến trình phát triển của trẻ còn có những giai đoạn phát cảm của một vài chức năng tâm lí nào đó. Đó là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển các chức năng ấy, đặc biệt là sự chín muồi của hệ thần kinh. Chẳng hạn, từ 2 đến 5 tuổi là giai đoạn phát cảm của chức năng ngôn ngữ (sự phát triển của ngôn ngữ diễn ra nhanh), thời kỳ 7 đến 8 tuổi là thời kỳ phát cảm của chức năng vận động các cơ tay. Trong giáo dục cần phát hiện đúng thời kỳ phát cảm của trẻ để giúp trẻ luyện tập thành thục, sớm hơn thì có hại mà muộn hơn thì mất thời cơ. + Ở phạm vi lứa tuổi, quá trình phát triển tâm lí của mỗi trẻ đều diễn ra từ đơn giản đến phức tạp. Nhưng mỗi trẻ lại có con đường phát triển riêng về tốc độ, nhịp độ và khuynh hướng. Nguyên nhân tạo ra con đường phát triển riêng của mỗi trẻ là do sự chi phối của các yếu tố : điều kiện sinh học, hoàn cảnh sống và giáo dục, đặc biệt là mối quan hệ giữa trẻ với thế giới bên ngoài thông qua hoạt động của chính bản thân trẻ. Trong giáo dục phải chú ý đến qui luật phát triển riêng của mỗi trẻ để có cách tác động phù hợp, trách hiện tượng giáo dục đồng loạt. 5. 2. Tính trọn vẹn + Sự phát triển tâm li trẻ em là một quá trình chuyển dần những trạng thái tâm lí thành các thuộc tính tâm lí. Đầu tiên là những trạng thái tâm lí rời rạc nhau, thiếu tính hệ thống, dần dần chúng trở nên hoàn thiện, ổn định, quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên cấu trúc tâm lí trọn vẹn, thống nhất và bền vững. + Tính trọn vẹn của tâm lí phụ thuộc vào động cơ hành vi. Những động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và bộc lộ rõ rệt trong nhân cách. Trẻ mẫu giáo hành động vì một điều gì đó và dễ thay đổi ( động cơ chưa ổn định). Trẻ cấp I hành động vì thích, hơn là vì nghĩa vụ (động cơ ổn định nhưng tính xã hội chưa cao). Trẻ cấp II hành động vì nghĩa vụ, vì phát triển bản thân (động cơ mang tính xã hội ổn định). 5. 3. Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ + Tính mềm dẻo là tính dễ thay đổi và xu hướng lặp lại sự thay đổi đó khi gặp điều kiện tương tự. Hệ thần kinh của trẻ rất linh hoạt, mềm dẻo, vì thế những tác động giáo dục có thể làm thay đổi hành vi của trẻ (dễ thay đổi, dễ chuyển hóa). + Tính mềm dẻo tạo ra khả năng bù trừ. Khi một chức năng nào đó suy yếu hoặc thiếu hụt thì các chức năng khác phát triển mạnh lên, được tăng cường để bù đắp cho chức năng bị yếu hoặc bị thiếu đó. Chẳng hạn, người khuyết tật thị giác thì thính giác và xúc giác phát triển mạnh hoặc trí nhớ kém thì được bù lại bằng tính tổ chức, chính xác cao của hoạt động. 6. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học trẻ em 6. Nguyên tắc chỉ đạo phương pháp nghiên cứu 61. Nguyên tắc hoạt động Nguyên tắc hoạt động xuất phát từ việc nhìn nhận hoạt động là nguồn gốc của toàn bộ nền văn hóa nhân loại, của thế giới tinh thần, thế giới tâm lý của con người. Hoạt động cũng là nơi tinh thần, tâm lý thực hiện chức năng của chúng đối với cuộc sống thực của con người. Hoạt động cũng chính là động lực phát triển tâm lý. Do đó tâm lý học lấy hoạt động làm mô hình nghiên cứu các hiện tượng tâm lý.

Nguyên tắc hoạt động trong nghiên cứu tâm lý trẻ em đòi hỏi phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong hoạt động của trẻ (trong quá trình hoạt động và trong sản phẩm hoạt động). Nguyên tắc hoạt động trong nghiên cứu tâm lý cũng đòi hỏi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý theo mô hình hoạt động với đối tượng, tức là các hiện tượng tâm lý từ cảm giác, tri giác đến tư duy, ngôn ngữ... đều được nghiên cứu như những hoạt động. Ở đây mỗi hoạt động tâm lý được nghiên cứu trong mối quan hệ giữa bản thân cái ta gọi là cảm giác, trí nhớ, tư duy... với động cơ thúc đẩy các hoạt động đó, với mục đích mà chúng hướng đến, cũng như trong mối quan hệ với các phương tiên để thực hiện tri giác, trí nhớ, tư duy 1 ... Xem xét các hiện tượng tâm lý là xem xét sự vận động của các mối quan hệ ấy. 6.1. Nguyên tắc tính tổng thể Nguyên tắc tính tổng thể xuất phát từ quan điểm hệ thống trong nghiên cứu tâm lý học. Các hiện tượng tâm lý không tồn tại một cách biệt lập với nhau mà nằm trong mối quan hệ qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Đồng thời, chúng cũng nằm trong mối quan hệ với các loại hiện tượng khác – chịu sự chi phối và chi phối các loại hiện tượng khác. Từ đây, trong việc nghiên cứu tâm lý trẻ em phải tính đến tính chất tổng thể, hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối tượng nghiên cứu. Khi nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào đó không được tách nó ra khỏi toàn bộ đời sống tâm lý con người. Đồng thời, khi nghiên cứu một đặc điểm, phương diện nào đó của một hiện tượng tâm lý thì không được tách khỏi các đặc điểm, các phương diện khác của hiện tượng tâm lý đang nghiên cứu. Phải đặt hiện tượng nghiên cứu vào trong mối quan hệ với các hiện tượng khác. Các hiện tượng tâm lý thông thường được nghiên cứu ở các tầng bậc khác nhau. Chẳng hạn, hành vi của con người có thể được xem xét ở các bậc cử động, thao tác, hành động và hoạt động. Cách nghiên cứu như vậy cho phép đi sâu vào các phương diện khác nhau của hiện tượng cần nghiên cứu, chỉ ra các đặc trưng ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, song song với việc nghiên cứu theo hướng phân tích như vậy, cần có cách tiếp cận tổng thể để không “đánh mất” đối tượng nghiên cứu. Xét từ nguyên tắc tính tổng thể, cần nhìn nhận hiện tượng tâm lý ở cấp độ hoạt động-nhân cách. 6.1. Nguyên tắc phát triển Các hiện tượng tâm lý không phải là những hiện tượng bất biến. Chúng luôn ở trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Do đó, trong nghiên cứu một hiện tượng tâm lý phải thấy được quá khứ, hiện tại và tương lai của nó, đồng thời cũng phải thấy được tính ổn định của nó trong một thời điểm nhất định, trong những điều kiện nhất định. Nguyên tắc phát triển cũng đòi hỏi nhà nghiên cứu không dừng ở việc mô tả sự kiện, xác nhận một trình độ biểu hiện của một hiện tượng tâm lý nào đó mà phải chỉ ra chiều hướng vận động, xu thế phát triển của hiện tượng đó. Bất kỳ một đặc điểm tâm lý nào, một nét nhân cách nào cũng đều phải được xem xét như vậy. Việc tuân thủ nguyên tắc này cho phép chúng ta thấy toàn cảnh sự xuất hiện, diễn biến và kết thúc của đối tượng nghiên cứu, cho thấy quy luật tất yếu của sự phát triển của đối tượng – đây là điều cần đạt tới của mọi công trình nghiên cứu khoa học. 6.1. Nguyên tắc cụ thể

1 Ở đây việc xem xét hoạt động được thực hiện theo mô hình cấu trúc hoạt động với các đơn vị Hoạt động – Động cơ; Hành động – Mục đích; Thao tác – Phương tiện.

Was this document helpful?

TÂM LÝ TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON LTĐH for learner

Course: Electrical Machine 1 (1051383)

17 Documents
Students shared 17 documents in this course
Was this document helpful?
TÂM LÝ TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON
Chương I : Khái quát chung về tâm lý học trẻ em
( 5 tiết)
1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lý học trẻ em
1.1.Đối tượng nghiện cứu của tâm lý học trẻ em
Sau khi trở thành một khoa học độc lập, kết quả nghiên cứu của tâm học được
ứng dụng rộng rãi vào mọi lĩnh vực của đời sống hội, từ đó hình thành nên nhiều
chuyên ngành tâm học khác nhau. Tâm học trẻ em một trong số những chuyên
ngành quan trọng của tâm lý học, hướng vào việc nghiên cứu đời sống tâm lí trẻ em.
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học trẻ em là: Những sự kiện, qui luật phát triển
của hoạt động, của các quá trình, phẩm chất tâm trẻ em sự hình thành nhân cách
của trẻ trong sự phát triển của nó
1.2. Nhiệm vụ nghiện cứu của tâm lý học trẻ em
Nghiên cứu đối tượng của mình, tâm học trẻ em cũng tuân theo những nguyên
tắc, những sở luận của những luận thuyết tạo nên phương pháp luận của tâm học
đại cương. Nhưng s phát triển tâm trẻ em còn chịu sự tác động của những qui luật
riêng và có những đặc điểm đặc trưng nên nhiệm vụ của tâm lí học trẻ em là :
- Nghiên cứu sự phát triển của các quá trình tâm lí, đặc điểm hoạt động tâm
sự hình thành nhân cách của trẻ diễn ra như thế nào qua các thời kỳ, các giai đoạn phát
triển nhất định và chịu sự tác động của những yếu tố nào.
- Phân tích những điều kiện, những yếu tố, hoàn cảnh qui định sự phát triển của trẻ
trong sự tác động tương hỗ giữa chúng. Phân tích những mâu thuẫn xảy ra một cách
qui luật trong quá trình đứa trẻ chuyển từ trình độ phát triển này sang trình độ phát triển
khác được giải quyết trong quá trình phát triển như thế nào? (Chỉ ra động lực của sự
phát triển).
- Nghiên cứu đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao của trẻ các giai đoạn
phát triển khác nhau nhằm tìm ra sở tự nhiên của sự phát triển tâm trẻ em, sự ảnh
hưởng của yếu tố di truyền đối với sự phát triển tâm lý trẻ.
Tâm học mầm non một bộ phận của tâm học trẻ em, đối tượng, nhiệm
vụ nghiên cứu giống với tâm lý học trẻ em nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi lứa tuổi từ 0
đến 6 tuổi
1.3. Ý nghĩa của tâm lý học trẻ em
thành phần quan trọng trong hệ thống khoa học phạm mầm non, tâm học
trẻ em ý nghĩa luận thực tiễn to lớn. Tâm học trẻ em quan hệ mật thiết với
nhiều ngành khoa học khác nhau, vừa lấy chúng làm sở để nghiên cứu đối tượng của
mình, vừa góp phần cho sự phát triển của các khoa học ấy. Sự hiểu biết sâu rộng về kiến
thức tâm học trẻ em còn là điều kiện để giáo mầm non thực hiện tốt mọi hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ.
1